Đời là vô thường – Thích Giác Thiện

LỜI NÓI ĐẦU

Kiếp người ngắn ngủi vạn vật vô thường biến ảo, như đám mây lơ lửng giữa bầu trời hợp tan đã để lại trong lòng chúng tạ biết bao lo âu, nuối tiếc và sợ hãi, xâu chuỗi thời gian âm thanh lặng lẽ trôi qua cho đến khi tử thần gõ cửa ra đi để lại kẻ khóc tiễn người đi nghìn thu vĩnh biệt.

Bản thân tôi là nhà sư thường đi đám tang, nền đã chứng kiến rất nhiều cảnh sanh ly, tử biệt bi ai, thảm thương khi nhìn thấy con cháu khóc ông bà, cha mẹ hay là ông bà, cha mẹ khóc con cháu, vợ chồng xa lìa ân ái, biệt ly, sầu bi, đổ lệ can trường.

Chứng kiến thảm cảnh đó, tôi mạo muội cố gắng sưu tầm lời Phật dạy và các tài liệu nói lên tính chất vô thường của Chư Tôn Đức kết lại thành tập “Vô Thường” này. Đã nhiều lần muốn ấn tống, nhưng ngại mình đức mỏng, tài sơ chưa đủ khả năng làm được việc này. Nếu mãi e ngại hoài thì không làm được gì uổng phí một đời thọ ơn đàn na tín thí, chi bằng cố gắng viết hết những gì mình hiểu biết để báo đáp phần nào ơn đức Tam BảoĐàn Việt.

Nhờ sự hoan hỷ đóng góp của huynh đệ, cho nên cuốn sách này mới có dịp ra mắt quý vị độc giả xem qua, nếu có điều gì sơ xuất, thiếu sót, ngưỡng mong chư Thiền Đức và Quý Phật tử xa gần hoan hỷ đóng góp ý kiến để nội dung này được hoàn chỉnh hơn.

Trần thế chỉ là chỗ tạm nương,
Cũng như quán trọ ở ven đường.
Mỗi người là khách dừng chân tạm,
Rồi sẽ đi về chốn viễn phương.
Chúng sanh tội ác tựa non cao
Biển nghiệp gió giông sóng bủa ào
Tóc bạc da khô chưa tỉnh ngộ
Vô thường trước mắt tính làm sao?
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

                                                                                              THÍCH GIÁC THIỆN

1. ĐỊNH NGHĨA VÔ THƯỜNG

Vô Thường là thế nào? Quý vị hãy tư duy lời Phật dạy

Vô thường có nghĩa là không bền chắc, từ trạng thái này biến đổi qua trạng thái khác và tan hoại theo định luật: THÀNH – TRỤ – HOẠI – KHÔNG.

Để quý vị hiểu thế nào là THÂN VÔ THƯỜNG, TÂM VÔ THƯỜNG, HOÀN CẢNH VÔ THƯỜNG

Chúng ta hãy cùng quan sát suy nghiệm sẽ biết ngay

2. THÂN VÔ THƯỜNG

Nói đến THÂN VÔ THƯỜNG nó Sanh – Diệt từng phút, từng giây, xâu chuỗi thời gian âm thầm đẩy đưa chúng ta tiến dần vào cõi chết. Khoa học cũng đã chứng minh các tế bào trong cơ thể con người luôn luôn thay đổi làm cho ta mau lớn, chóng già rồi chết. Mỗi phút giây trong cơ thể đều có sự SANH – DIỆT – không ngừng.

Nói đến Vô Thường, trong kinh Kim Cang Đức Phật dạy:

Tất cả các Pháp trong đời,
Cũng như giấc mộng khác gì huyễn thôi,
Tựa hồ bọt nước dòng khơi,
Mảnh thân bào ảnh chút hơi xương tàn,
Ngày qua chớp nhoáng lẹ làng,
Phải nên suy xét hợp tan đó là.

Thật vậy, cái thân con người chẳng khác nào như tuyết gá cành cây, sương đầu ngọn cỏ, mới thấy đó rồi lại mất đó. Đứng trước thảm trạng ấy, Thái Tử Tất Đạt Đa nghiệm thấy thân này là Tứ Khổ, nên Ngài xuất gia đắc đạo hiệu là Thích Ca Mâu Ni, đem giáo pháp cứu độ chúng sanh đưa họ vào cõi Niết Bàn bất sanh bất diệt.

Thưa quý vị,

Cái thân của ta có gì là thật đâu. Tất cả không ai thoát khỏi cảnh SANH – LÃO – BỆNH – TỬ. Từ lúc còn nằm trong bụng mẹ đã là khổ rồi, bốn bên bao bọc đen tối chẳng khác nào ở chốn ngục tù đầy nhơ uế. Từ lúc mới chào đời cho đến khi trưởng thành, trải qua không biết bao nhiêu là bệnh hoạn, tai nạn, âu sầu, khổ não lúc nào cũng rình rập bên mình. Tuổi về chiều lại càng khổ hơn, da nhăn, má hóp, răng rụng, tóc bạc, thân thể gầy yếu, đi đứng khó khăn, đau
ôm triền miên, khổ không tả xiết, lần hồi bước vào cõi chết.

Trong giờ phút hấp hối tâm thần rối loạn, vẩn vơ, kinh sợ vô cùng, rồi lần mòn đến lúc lâm chung, từ giã cõi đời tạm bợ theo đường Tội – Phước, dẫu cho có nhiều phương thuốc ngừa trước, ngăn sau cũng không thoát khỏi luật tuần hoàn.

Nói đến cái chết trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, kể rằng:

Thuở Phật còn tại thế, một hôm Ngài cho gọi chư Tỳ Kheo đến hỏi rằng: Mạng người sống được bao lâu?

  • Vị thứ nhất thưa rằng: Mạng người sống được 100 năm.
  • Vị thứ hai nói sống được 70 năm.
  • Còn vị thứ ba bảo vài tháng, vài ngày v.v…
  • Vị thứ tư Bạch Thế Tôn! Mạng người sông chỉ có một hơi thở.

Phật khen rằng: Ông hiểu và nói được như vậy mới thật là người giác ngộ. Thật vậy, chúng ta sống được là nương vào hơi thở, hễ thở ra mà không hít vào là ôi thôi: Ô hô! Tam thốn khí tại thiên ban dụng Nhất đáng vô thường vạn sự hưu. Hơi vừa dứt mạng người ôi cũng dứt. Nào của cải, vợ con, tài vật đều bỏ lại. Nhắm mắt rồi cũng nắm tay không, bất luận hàng vương giả hay thứ dân, giàu nghèo, sang hèn, ai ai rồi cũng phải chết.

Thân này nào có ra chi?
Của kia lại có chắc gì mà ham.

Hay là:

Sau đường ân ái hai tay trắng,
Cuối lớp ân tình nấm mộ xanh.

Vậy mà thiên hạ cứ nghĩ mình sống hoài muôn đời trên vũ trụ, nên họ cứ mãi giành giật cấu xé lẫn nhau, ai cũng tham giàu sang quyền tước. Nhưng dù có kho vàng, núi bạc, lộc cả quyền cao, gác tía lầu son, ngọc ngà châu báu, tất cả đều bị định luật Vô Thường đào thải. Có nghĩa lý chi mà thiên hạ lại nỡ đang tâm sát phạt, tranh giành, chung qui rồi cũng trở về với cát bụi…

Nói đến đây tôi nhớ đến mẩu chuyện thuở Phật còn tại thế. Một hôm, Ngài cùng tôn giả Tích Sa đứng trên một ngọn núi gần biển. Phật hỏi:

– Này Tích Sa! Ông có thấy trước mắt ông là gì không?

Tôn giả Tích Sa thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn, con chỉ thấy trước mắt con toàn là biển nước mênh mông.

Nhân đó Đức Phật dạy:

Cũng vậy, nước mắt của chúng sinh khóc vì những nỗi khổ của mình và đưa tiễn người thân đi vào cõi chết từ vô thỉ đến nay nhiều hơn là nước của đại dương, còn xương thịt chất chồng cao hơn cả núi Thái Sơn”.

Một hôm khác, Đức Phật cho gọi các Tỳ Kheo đến và hỏi:

– Sắc là thường hay vô thường?

Chư Tỳ Kheo đáp: Sắc là vô thường.

Phật lại hỏi tiếp:

– Thọ – Tưởng – Hành – Thức là thường hay vô thường là Khổ hay Lạc? Bạch Đức Thế Tôn là Khổ.

Vậy các ông có nên chấp cái thân này là tự Ngã của ta, vật chất là của mình không?

– Bạch Thế Tôn, chúng con không nên chấp vì thân mạng, của cải, vật chất đều là vô thường giả tạm.

Phật dạy:

Các ông nên nhớ từ hiện tại, quá khứ cho đến vị lai, không có cái gì là tự ngã của ta. Cho đến Thọ – Tưởng – Hành – Thức cũng là như thế. Các ông phải quan sát như vậy để nhàm chán xa lìa nó mà thẳng tiến trên con đường giải thoát tri kiến”.

Cái thân này là vô thường giả tạm. Vậy mà người ta cứ lầm chấp cho nó là thật. Họ quan niệm là Vật dưỡng Nhơn, nên thẳng tay sát sinh hại vật.

Nhưng thử hỏi: muỗi mòng, lang sói… chúng cũng có quyền nói: Người sinh ra nhơn để dưỡng vật được sao?

Chẳng qua là Khôn Sống – Dại Chết – Mạnh Được – Yếu Thua là chuyện xưa nay.

Tại sao người con Phật phải trường trai giới sát? Vì con cá cắn câu thì hoảng sự. Con chim thấy cung tên, súng đạn liền vỗ cánh bay cao. Ngựa trâu còn chảy nước mắt ròng ròng khi sắp bị đập đầu, thọc huyết.

Điểu thú còn tham sống, sợ chết, tại sao ta đành lòng giết chúng mà ăn. Ban đầu, người giết cầm thú, sau rồi người lại giết người. Bởi quen mùi máu tanh hôi, nên sanh ra hiếu sát chiến tranh giặc giã, giết hại lẫn nhau. Sơn hào hải vị, một bữa ăn mà kẻ khóc người than, thú kia chết thảm gây thù chuốc oán luân hồi thường mạng lẫn nhau, chi cho bằng cơm rau đạm bạc cũng qua ngày hai buổi rảnh chí tu hành.

Bởi vậy tôi ước mong sao mọi người trên thế gian hãy xót thương tất cả muôn loài. Vì chúng đều có tri, có giác, ta đừng làm chúng nó đau khổ. Đó là lẽ đạo Từ Bi mà đức Phật từng dạy các hàng đệ tử.

Đời người chẳng khác nào như con thuyền lạc giữa phong ba, nước mắt thế nhân là đại hải bao la, bôn ba giành giật sát sinh, hại vật ăn cho vinh thân phì da, rốt cuộc rồi cũng chết. Con người vì thân mà gây ra lắm oan nghiệt nên khổ trước chưa nguôi, sầu sau đã tới.

Nói đến vô thường thuở Phật còn tại thế. Một hôm, vua Ba Tư Nặc cùng bá quan văn võ xa giá đến yết kiến Đức Phật và thưa rằng:

Bạch Thế Tôn ! Con là vua Ba Tư Nặc, cai trị nước Câu Tác La có bốn binh chủng hùng mạnh. Hôm nay, con đến viếng thăm Đức Thế Tôn, vua Ba Tư Nặc nói như vậy là nhằm để khoe với Đức Phật, ông là vị vua hùng mạnh nhất thời đó để cho Đức Phật khen ngợi. Nhưng ngược lại Đức Phật không khen mà còn hỏi rằng:

Này Đại Vương, giả sử như ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc có bốn ngọn núi cao chọc trời đang lăn về đây, mỗi khi di chuyển đến đâu là nghiền nát người và vật đến đó, thử hỏi Đại Vương lấy cái gì ra để chống ngăn đó ?

Vua Ba Tư Nặc ngẫm nghĩ thưa rằng:

Bạch Thế Tôn con không thể nào đem bôn binh chủng, kho tàng, thần dân ra mà ngăn chông được, vì nếu đem ra sẽ bị nó nghiền nát hết.
Nhân đây Đức Phật dạy:

Đúng như vậy đó Đại Vương, bốn ngọn núi đó chính là: sinh, lão, bệnh, tử.

Này Đại Vương lắng nghe! Vì người đời ngu ám không có chánh trí, nên nhiều kẻ say mê vui đời mà chẳng hề biết tội phước gì cả, nên thường bị tứ khổ:

Những nỗi khổ về sanh

Khi còn nằm trong bụng mẹ hài nhi chịu rất nhỉều nỗi khổ; nếu mẹ ăn đồ nóng hoặc uống nước lạnh thì như nằm trong lò lửa, hầm băng. Khi mẹ đói cơm khát nước, thai nhi lỏng bỏng khó chịu, mẹ ăn no lấn ép khó bề cựa quậy. Lúc sanh thân con đau đớn, mạng mẹ nguy hiểm, lòng cha lo sợ. Ra khỏi lòng mẹ da thân mềm mỏng, chạm phải những vật bền ngoài đau như là dao cắt, hoảng hốt thất thanh khóc vang.

Những nỗi khổ về già

Lúc nhỏ nhờ ơn nuôi nấng của cha mẹ, lớn lên đương đầu với cuộc sống đầy gian lao cực khổ để mưu sinh, lần hồi đến ngày
già yếu, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưỡi đớ, tay chân run rẩy đi đứng khó khăn, trí tuệ lu mờ sanh ra lẫn lộn: ăn dơ, uống bẩn, nói năng giống như người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi, có khi lại chửi bới, nói năng nhảm nhí làm trò cười cho lũ trẻ…

Những nỗi khổ về đau

Thân người do bốn đại là: đất, nước, gió, lửa hiệp thành. Nếu như bốn đại không điều hòa thì bệnh sanh khởi; như địa đại chẳng điều hòa thì thân thể nặng nề, thủy đại chẳng điều hòa, thân thể phù thũng, hỏa đại chẳng điều hòa, thì thân nóng nảy, phong đại chẳng điều hòa, thân thề động chuyển, đau đớn như kim châm lửa đốt.

Chính vì bốn đại không điều hòa cho nên sanh ra vô số chứng bệnh nào là: Cùi phong, ghẻ lở, ung nhọt, cảm sốt, nhức
đầu, đau răng, bại liệt… làm cho khí lực hao mòn, miệng khô lưỡi thục, mũi nghẹt, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, những đồ nhơ nhớp tuôn trào rồi ngồi nằm trên ấy! Tâm thần khổ não, giọng nói bi aii buồn thảm, món ngon vật lạ khi đưa vào miệng đều biến thành vị đắng.

Những nỗi khổ về chết

Thân người đến lúc sắp chết, thời bốn đại phân tán thần thức chẳng an, gió thổi tới như dao cắt, đau nhức toàn thân, toát mồ hôi, mệt ngột không ngần, trợn mắt, méo miệng, giựt gân, uốn mình, vãn tay, bẻ chân,… hai tay buông xuôi. Phong đại tản đi là hết hơi thở, hỏa đại đi là tấm thân lạnh ngắt như đồng !
Cho dù Đại Vương có bao nhiều binh chủng, kho tàng, thần dân đi chăng nữa cũng không thể nào đối đầu với tử thần, chỉ có nước bó tay cởi giáp đầu hàng mà thôi. Sau khi chấm dứt pháp thoại, vua Ba Tư Nặc thức tỉnh, hoan hỷ tín thọ phụng hành lời Phật dạy.

Trong Kinh A Hàm, Phật dạy: “Tất cả không ai tránh khỏi sanh, lão, bệnh, tử. Vậy mà có lắm người khi thấy ai đó già, bệnh, chết lại sanh tâm khinh khi nhờm gớm. Nhưng họ lại quên rằng rồi đây mình cũng già, bệnh, chết …

Nhớ lại thuở Phật ở Trúc Lâm Tịnh Xá, có một thầy Tỳ kheo mắc bệnh lở lói khắp cả thân thể, máu mủ thường chảy ra ai thấy cũng sợ hãi không dám lại gần. Nhìn thấy thảm cảnh ấy Đức Phật đến chỗ vị Tỳ Kheo tự tay trông nom săn sóc cho đến khi bình phục.

Đó là tấm gương từ bi của Phật, chúng ta là đệ tử Ngài không thể dửng dưng, làm ngơ trước sự đau khổ của nhân loại mà không ra tay cứu giúp. Chăm sóc cho người bệnh, một là ta cảm nhận thân này là bất tịnh, để nhắc nhở trên đường tu tập, hai là tích lũy phước lành cho mai sau. Ngược lại, thấy người già yếu, bệnh hoạn, hủy báng, khạc nhổ làm ngơ, sau này kẻ đó phải bị quả báo khi bệnh không ai ngó tới, mọi người tránh xa. Thân này quả thật là nơi chứa nhóm các thứ bệnh hoạn, tai nạn.

Bởi vậy, những ai là bậc hiền trí phải kíp mau tự lợi bằng cách nương về Tam Bảo, huân tập những tài sản của bậc thánh, đó là thất thánh tài: Một là Tín, hai là Giới, ba là Tàm, bốn là Quý, năm là Đa văn, sáu là Trí tuệ, bảy là Xả ly.

Tín là phải vững niềm tin nơi Tam Bảo

  • Phật là đấng toàn năng toàn giác, đáng để cho chúng ta tôn thờ tín ngưỡng.
  • Pháp có công năng diệt trừ phiền não, tham, sân, si.
  • Tăng là người đại diện cho Phật duy trì mạng mạch Phật pháp làm lợi ích an lạc cho chúng sinh.

Giới là hàng rào ngăn chặn các điều ác.

Tàm, Quý là biết xấu hổ những tội lỗi của mình, ăn năn cải sửa những lỗi lầm để trở nên người Chân Thiện Mỹ.

Đa văn nghĩa là ngoài việc mưu sinh ra quý vị nên dành chút thời gian nghe kinh học pháp, để làm hành trang trên bước đường tu tập. Nhờ học hỏi giáo lý mà mình biết đâu là thiện ác, tốt xấu, phải trái, việc gì nên làm, việc gì không nên làm từ đó phát sinh trí huệ, nhờ có trí huệ mới xả ly hết những kiến chấp sai lầm, vụn vặt thẳng tiến trên con đường giải thoát.

Có nhiều người nhờ căn lành đời trước, gặp được thiện hữu trí thức khuyên nhắc quy y giữ giới, tụng kinh niệm Phật, bố thí, phóng sinh để tích lũy phước đức về sau. Họ lại trả lời rằng tuổi tôi còn trẻ, đời còn dài, tương lai tươi sáng đang chờ đón dại gì phải tu cho uổng phí tuổi xuân … Chính vì thế nên Tổ xưa khuyên bảo rằng:

Mạc đãi lão lai phương niệm Phật
Cô phần đa thị thiêu niên nhân
Nghĩa là:
Chớ đợi đến già mới niệm Phật
Mồ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh.

Quý vị ra nghĩa địa hay đến nhà cửu huyền thời thấy rõ nơi đó không từ bất cứ một ai. Quý vị nên nhớ rằng con quỷ vô thường lúc nào cũng rình rập bên chúng ta, không hẹn mà đến, không mời mà tới. Mỗi khi nó đến thì bất luận Tăng, Tục, Già, Trẻ, Sang, Hèn, nó sẽ đưa chúng ta đến lò thiêu hay những nơi nghĩa địa hoang vắng xa xôi cô tịch. Nơi ấy dẫu thông minh, tài trí anh hùng, khôn dại, chung quy rồi ai cũng chết. Kiếp phù sinh là thế đó, như ngọn đèn trước gió không biết nó tắt giờ nào.

Đời người ảo ảnh phù du cuối cùng rồi cũng nhắm mắt xuôi tay, tạ thế đi về âm cảnh với hai bàn tay trắng mà chẳng gieo được một chút phước duyên thì thật là đáng tiếc vô cùng.

Vì thế nên Khổng Tử than rằng:
Sanh tiền bất tri thiên đường lộ
Tử hậu nan ly địa ngục môn.

Có nghĩa là: Lúc sống mà khống biết làm việc lành, thời sau khi chết khó mà thoát khỏi cửa địa ngục.

Như có mẩu chuyện kể rằng:

Ở trên nhân gian có một người chuyên môn làm việc ác đến khi chết bị quỷ sứ bắt dẫn đến vua Diêm Vương.

Vua hỏi: “Ở trên nhân gian sao ngươi không chịu làm việc thiện, gây chi ác nghiệp để rồi phải bị đọa đày xuống đây khổ sở thế này”.

Ông ta cãi lại: “Thưa Diêm Chúa! Ở trên nhân gian, nhà nước làm việc gì còn phải thông báo trước. Sao Ngài khi không bắt tôi ngang như thế này thử hỏi làm sao tu cho kịp”.

Diêm Chúa nói: “Ngươi có thấy người già, người bệnh, người chết không?”.

Ông ta nói: “Thưa Ngài tôi thấy”.

Diêm Chúa bảo: “Đó là những thông điệp mà ta gửi đến ngươi phải biết rằng ai rồi cũng phải chết, tại sao ngươi không lo tu?”.

Ông ta nói: “Thưa Ngài! Tôi cũng chưa phải là già lắm, tại sao Ngài lại bắt tôi?”.

Diêm Chúa phán: “Ngươi có thấy những người còn trẻ mà vẫn chết không?”.

Ông ta nói: “Thưa Diêm Chúa thấy”.

Diêm Chúa nói tiếp: “Ngươi phải hiểu rằng cho dù già, trẻ, lớn, nhỏ gì tới số đều phải chết, tại sao không lo tu mà còn biện luận lôi thôi”:

Ông ta vội quỳ xuống thưa rằng: “Tôi thấy nhưng vì quá ngu mê nên mới gây ra ác nghiệp, mong Diêm Chúa từ bi tha thứ”.

Diêm Chúa phán: “Tội của ngươi làm ra không phải cha mẹ hay đấng thiêng liêng quyền thế nào xúi giục, mà chính tự ngươi làm thì ngươi phải chịu không có nói năng dài dòng gì nữa. Ngục tốt đâu lôi nó vào ngục hành hình cho ta”.

Thế nên người xưa mới than rằng:

Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, Quỷ sứ đòi khóc một khóc hai.

Quý vị nào đầu tóc điểm bạc đó là thiên sứ nó đến báo tin rồi ráng lo tu kẻo trễ. Có nhiều bà cụ đi chùa lễ Phật, tôi thấy vậy mới khuyên. Cụ già rồi không biết chết giờ nào ráng lo niệm Phật, làm hoài cũng vậy biết bao nhiêu mà cho đủ, để cho con cháu nó làm, cụ lo niệm Phật để đức lại cho nó. Hơn nữa, nhờ niệm Phật khi chết được Phật rước về Cực lạc an lành, chớ con cháu, của cải không cứu mình được.

Bà cụ nói: Sư bảo như vậy cũng phải nhưng mấy đứa con của tôi còn nhỏ lập gia đình chưa hết, để khi nào nó yên bề gia thất rồi tôi mới rảnh mà tu.
Mới nghe qua tôi thấy cũng có lý. Nhưng khi con nó lập gia đình xong không bao lâu lại sinh ra cháu. Phận làm cha mẹ thật là khó xử, con nó bận đi làm không ai giữ cháu, thấy vậy không đành lòng rồi cứ tiếp tục lo cái này xong lại có cái khác, cái khác vừa xong lại có cái khác nữa, cứ như thế mà lo mãi cho đến khi ngã ra chết mà cũng chưa rảnh để tu.

Nên cổ Đức mới than rằng:

Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết chết ngày mai
Không ai điều đình được
Với đại binh thần chết.

Khi tử thần đã đến gõ cửa, mình nói khoan để chậm lại vài năm nữa cho tôi tu có được không? Chuyện đó không bao giờ có, vì:

Diêm Vương chỉ định canh ba chết
Không thể nán lại đến canh năm.

Hỡi ôi! Tất cả già, trẻ, sang, hèn ai rồi cũng phải chết. Bởi vậy, chúng ta không tu nhiều được thì cũng nên tu ít chớ có hẹn hò, bất luận là người ngoài đời hay trong đạo, tánh giải đãi rất tối kỵ trong sự thành công.

Than ôi! Lo giàu nghèo lo mãi cũng không xong, hẹn khi khác mới tu. Thử hỏi khi khác tới bao giờ mới có. Chúng ta phải suy xét thấy việc gì cần làm thì làm ngay, đừng hẹn ngày mai vì ngày mai là ngày đen tối của tử thần chờ nó để làm gì. Cho nên trong kinh Đức Phật đưa ra hình ảnh bốn con ngựa để ví dụ cho bốn hạng người.

  • Con ngựa thứ nhất vừa thấy bóng roi đã chạy
  • Con ngựa thứ hai nhịp lên lưng mới chịu chạy
  • Con ngựa thứ ba đánh cho thiệt đau mới chạy
  • Con ngựa thứ tư đánh chết bỏ, lúc lắc chớ không chịu chạy.

Nói đến đây Đức Phật dạy con người ta cũng thế:

  • Con ngựa thứ nhất: chỉ cho người trí vừa nhìn thấy trong xóm có người chết là họ lo tu liền. Giống như con ngựa thứ nhất vừa thấy bóng roi liền chạy.
  • Con ngựa thứ hai: chỉ cho ai đó thấy người thân trong gia đình chết mới chịu phát tâm tu. Giống như con ngựa thứ hai nhịp lên lưng mới chịu chạy.
  • Con ngựa thứ ba, chỉ cho kẻ thấy người trong xóm chết họ cũng không tu, cho đến trong gia đình có người chết cũng chưa có nhúc nhích, đến khi chính bản thân họ bị bệnh thập tử nhất sinh, khi đó mới cảm nhận thấy xác thân này là vô thường giả tạm mới chịu phát tâm tu. Giống như con ngựa thứ ba đánh cho thiệt đau mới chịu chạy.
  • Con ngựa thứ tư, chỉ cho hạng người nghiệp chướng quá sâu dày, họ bị quan niệm tu cũng chết, không tu cũng chết, chẳng tin nhân quả, tội phước, sống là tranh đấu, chết là hết. Cho nên việc ác nào họ cũng dám làm, suốt đời không biết tu là gì. Giống như con ngựa chứng bất trị, hay là người bệnh nặng hết thuốc chữa, họ tự lao mình vào tam đồ ác đạo.

Quý vị tự kiểm lại xem trong bốn hạng người đó, coi mình thuộc hạng nào. Có nhiều người đợi cho đến khi bệnh sắp chết, mới chịu thức tỉnh, thỉnh quý sư đến cầu an, họ phát nguyện cầu Phật gia hộ cho con được bình an mạnh khỏe sẽ phát tâm tu. Nhưng đến khi mạnh, tu được một thời gian rồi cũng thôi!

Nhớ lại thuở Đức Phật còn làm Thái tử, chỉ nhìn thấy người già, bệnh, chết có một lần là phát tâm tu liền, còn mình nhìn thấy không biết bao nhiêu lần, nhất là quý vị lớn tuổi thấy hoài, vậy mà có mấy ai chịu tu ? Vì người ta chết chớ đâu phải mình chết, cho nên cứ tiếp tục gây nghiệp ác. Quý vị nên nhớ con đường người xưa đến, tới mình cũng phải đi qua thôi, nếu ai tự cho rằng tôi sống hoài không chết thì khỏi cần tu, còn nếu nghĩ rằng ai rồi cũng phải chết thì ráng chịu khó tu dùm một chút.

Mình lo cho sự sống bao nhiêu thì cũng phải nghĩ đến sự chết bấy nhiêu mà cố gắng tu hành. Tu ở đây không có nghĩa là vô chùa mới gọi là tu. Tu có nghĩa là sửa đổi những thói hư tật xấu, sai quấy. Thân không sát sanh, đạo tặc, tà dâm. Khẩu không nói dối, đâm thọc, thêu dệt, rủa chửi. Ý không tham lam, sân hận, tà kiến, đó gọi là tu. Chính cái sự tu, nó làm cho mình bớt khổ vì phiền não. Nhờ biết tu, cho nên mình hiền thì vợ chồng đâu có tranh cãi với nhau hoặc là ông chồng dữ, vợ hiền, chồng mắng, vợ nhịn thì đâu có chửi rủa đánh lộn. Nhờ vậy mà gia đình được bình yên, hạnh phúc.

Kế đến láng giềng, nếu họ hung dữ, chửi rủa, sỉ nhục v.v… Mình nghĩ rằng cái thân này không biết nó chết giờ nào ? Hơi đâu mà hơn thua cho sanh ra phiền não, oán thù. Họ muốn chửi bao nhiêu cứ chửi vô lỗ tai bên này qua lỗ tai bên kia đi mất, hơi đâu mà chửi lại làm chi cho mệt, chửi riết mỏi miệng họ cũng nghỉ. Nhờ vậy, mà lối xóm được bình yên. Còn nếu như bị người ta chửi, mình kiếm một câu gay gắt hơn chửi lại, nó sẽ đưa tới đấu khẩu không xong thì chuyển qua đấu võ, kẻ lổ đầu người bể mặt, bầm mình nếu lỡ tay đánh người ta trọng thương hoặc chết, thời sẽ tốn tiền thuốc lại bị bỏ tù hay là tử hình bỏ vợ con ở nhà không có ai lo khổ lây cả chùm.

Vậy mà ở đời họ cho đó là khôn, tự vỗ ngực xưng ta đây là anh hùng, còn người hiền họ lại cho là nhu nhược, yếu hèn, thật là mê muội. Cái chết nó đuổi gấp một bên mà không chịu lo tu, tối ngày cứ lo cái chuyện không đâu.

Cho nên có câu khuyên rằng:

Ai chửi mắng thì ta giả điếc
Chờ cho người hết giận, ta khuyên
Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên
Thì đâu có mang câu thù oán
Việc hung dữ hãy vừa thấp thoáng
Chữ từ bi ta diệt nó liền
Sự oán thù đáp lại chữ hiền
Thì thù oán tiêu tan mất hết.

Quý vị thử nghĩ, đã bao lần chúng ta đánh mất biết bao tình cảm đối với thân bằng quyến thuộc và nhân loại, cũng chỉ vì thiếu đức vị tha. Nhiều bậc cha mẹ vì lòng tức giận chửi mắng, đánh đập, xua đuổi con cháu chẳng chút xót thương, vô tình đưa nó vào con đường sa đọa, tội lỗi. Nhưng họ lại quên rằng những lỗi lầm ấy khi xưa mình đã từng vướng mắc, vậy ta nên từ bi, hỷ xả, chỉ dạy cho nó thấy được lỗi lầm sửa đổi.

Nếu thiếu đức tính khoan dung là tự mình chuốc lấy ưu phiền và gieo khổ cho người khác. Chính cái đó nó đánh mất tất cả tình cảm lẫn vật chất, mà người ấy có thể đem đến cho mình. Bởi thế, từ gia đình cho đến xã hội, ta phải tha thứ, thương yêu đùm bọc dìu dắt lẫn nhau, đồng tiến bước trên con đường đạo đức.

Đạo pháp thường hay dung với hòa,
Xét người có tội, xét thân ta.
Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
Ta thứ được người, người thứ ta.

Nhưng thử nghĩ, trên thế gian này có mấy ai được vậy? Quý vị đi đám tang thường thấy những bà vợ gục đầu bên quan tài khóc than, kể lể bằng những câu rất là thảm thiết. Nếu ngược lại, người nằm trong hòm là bà vợ, thì ông chồng buồn bã, than tiếc bằng những lời ưu ái, bi ai thật cảm động, cho đến con cái và thân bằng quyến thuộc cũng vậy. Khi còn sống bên nhau suốt đời họ chỉ đem toàn là những lời cay nghiệt, độc địa, thô bỉ, bạo tàn, sát phạt nhau. Đợi cho đến khi họ chết rồi mới ăn năn hối hận, khóc kể, tán dương, ca ngợi nào có ích gì…?

Thật sự mà nói những dòng nước mắt và lời nói đó đều là giả dối, vô nghĩa. Mình tự khóc kể rồi mình tự nghe, chớ đối với người đã chết thì không còn ý nghĩa gì nữa. Trong tận cùng tâm tư của con người, ai cũng thích dịu dàng, mơn trớn khi được người tán dương ca tụng. Tại sao, chúng ta không đem những ân tình, lời nói tốt lành cho nhau trong lúc còn sống, họ rất ưa thích biết là bao nhiêu.

Quý vị nên nhớ rằng ai rồi cũng phải chết, cuối cùng rồi cũng phải chia tay nhau. Cho nên các Thiền Sư lúc nào cũng khuyên chúng ta hãy dán chữ “Tử” trước mắt để ý thức rằng: Mình và những người chung quanh không biết chết lúc nào, trong khi còn sống chúng ta cố gắng lấy đạo đức, tận tình đốì xử tốt đẹp với nhau, để khi họ ra đi lương tâm mình không bị cắn rứt, bùi ngùi hối hận.

Muốn cho gia đình hạnh phúc, xã hội yên vui chúng ta phải tu hạnh nhẫn.

Chữ thứ nhất nhẫn năng xử thế.

Là người hiền khó kiếm trong đời

Chữ nhẫn giới trì tâm trong trẻo

Khuyên dương trần giữ phận làm đầu

Nhẫn hương lân cũng khắp đâu đâu

Trên cùng dưới điều hòa ý hỷ

Nhẫn phụ mẫu gọi trang hiền sĩ

Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau

Nhịn xóm làng cô bác mới cao

Nhẫn tâm nọ thường thường an lạc

Nhịn tất cả những người tuổi tác

Giữ tánh lành yên tịnh lâu dài

Quanh năm mới bảo toàn thân thể.

Tối sáng như tên bắn, ngày tháng tựa thoi đưa, không ai làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Chính vì thế Tổ Qui Sơn mới dạy rằng:

Ngày nay lại đã qua rồi

Mạng căn huyết mạch lần hồi tiêu hao

Dường như cá cạn ở ao,

Khổ thêm thì có chút nào vui đâu!

Cần tu thì lửa đốt đầu,

Đừng cho sát buổi như chầu Đế Vương

Tấm thân mỏng mảnh vô thường,

Sớm còn tối mất tìm phương cứu mình.

Qua bài kệ trên, Tổ chỉ cho mình thấy cái thân này là nơi chứa nhóm các thứ khổ. Giống như con cá ở trong ao không có nước, chẳng biết chết giờ nào, phải ráng mà lo tu để tự mình cứu lấy mình.

Đức Phật dạy, được thân người rất là khó, gặp Phật pháp lại càng khó hơn. Hôm nay mình có duyên lành hội ngộ với Tam Bảo không lo tu là uổng lắm, để rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hay tà ma ngoại đạo, biết bao giờ mới có thân người gặp được Phật pháp để tu. Trong kinh Đức Phật đưa ra hình ảnh con rùa mù ở biển cả, 100 năm mới nổi lên một lần mà gặp được bộng cây trôi, đó là một điều thiên nan vạn nan. Phật dạy được thân người cũng khó như thế. Ngài nói: Tuy thân này khó được nhưng khi được rồi lại bị vô thường hủy diệt, chớ có nên tham đắm nó mà gây ra tội lỗi.

Người ơi sớm thoát khỏi ta bà,
Trẻ tuổi rồi đây cũng đến già.
Địa ngục không đàng sao lại tới,
Thiên đường có cửa chẳng hề qua,
Quanh năm bận bịu đàn con dại,
Sớm tôi say mê đám ruộng nhà.
Chẳng biết phù sanh đời tạm giả
Tầm về Cực Lạc khỏe lòng ta.

Phật đưa ra cái lý chân thường, chân ngã để cho chúng ta tu tập, nếu không mình sẽ rơi vào trạng thái bi quan, thoái hóa. Muốn biết chân thường, chân ngã là gì? Chúng ta hãy cùng nhau suy ngẫm qua mẩu chuyện sau đây:

Chuyện kể rằng: Một thuở Đức Phật ở nước Xá Vệ, an trú tại Kỳ Viên Tịnh Xá. Một hôm vua Ba Tư Nặc đến yết kiến Đức Phật, thưa rằng:

– Bạch Đức Thế Tôn, gần đây thân mẫu con mất, cho nên con không rảnh đến viếng Phật nghe pháp, mong Đức Thế Tôn hoan hỷ cho.

Đức Phật nhìn thân hình tiều tụy, gương mặt âu sầu của vua Ba Tư Nặc liền dạy:
– Này Đại Vương, trên đời này có sanh ắt có tử, đó là định luật xưa nay, có gì Đại Vương phải buồn rầu đến thế? Nhân đó Đức Phật nói kệ:

Tuổi trẻ thân tráng kiện
Đến già sắc biến suy
Bệnh hoạn rồi phải chết
Sum họp để chia ly
Đâu có theo ý mình
Mạng sống thật giả tạm
Vạn vật đều vô thường

Thời gian đã qua rồi
Không bao giờ trở lại
Hãy lấy đó mà suy
Tinh tấn quyết hành đạo
Thẳng tiến đến Niết Bàn
Mới thoát khỏi sanh tử
Dứt sạch hết sầu khổ.

Đại Vương chớ nên dùng tâm phàm mắt thịt, nhìn thấy thân mẫu của mình mất rồi, sanh tâm âu sầu mà Đại Vương hãy nhìn vạn vật bằng huệ nhãn để thấy rõ các pháp do duyên sanh đều là vô ngã không thật. Đủ duyên thời hợp, hết thì tan, vì Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, nhẫn đến Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế. Đó là định luật nhân duyên vô thường giả hợp, có gì đâu mà Đại Vương phải lo âu sầu muộn để tự mình chuốc lấy phiền não, nào có ích lợi gì đâu?

Đại Vương nên sống với cái tâm chân thường, chân ngã, tự tại vô ngại, bất sanh, bất diệt. Đó là pháp thân, Niết Bàn diệu tâm vô tướng của Như Lai. Vô tướng ở đây có nghĩa là Vô tướng sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Vô tướng nam, nữ, vô tướng Sinh, Trụ và Hoại, Pháp thân của Phật không có sắc, không nhiễm trước các pháp, bất sanh, bất diệt, thường, lạc, ngã, tịnh, không thể dùng ngôn ngữ thí dụ hay suy tưởng được. Bạt khả tư nghị, bất khả thuyết, tự giác, tự tác, tự chứng giống như lúc ăn uống tự mình biết “ngon, dở, nóng, lạnh, người ngoài không thể biết được”.

Vua Ba Tư Nặc nghe Phật thuyết pháp, tâm thần tỏ ngộ, dứt hết phiền não, cúi đầu đảnh lễ Phật, y giáo phụng hành. Tóm lại, mắt nhìn không nhiễm sắc, tai không nhiễm Tiếng, mũi không nhiễm Hương, lưỡi không nhiễm Vị, thân chạm xúc mà không sanh tâm vui buồn tham đắm, sân hận, si mê. Nếu mình không tham đắm trụ chấp trước tướng bất cứ cái gì, ngay tại đó là chân thường, chân ngã, Niết Bàn, bất sanh, bất diệt. Nếu như mình còn trụ chấp là còn tướng, hễ còn tướng là còn. trong vòng sanh, diệt.

Xét lại thân của chúng ta chỉ là vay mượn các duyên bên ngoài để sống còn. Khi duyên hết thì tan rã, vì một ngày vô thường đến mới biết mình trong mơ, vạn vật đều vô thường. Duy chỉ còn lại nghiệp lành hay dữ nó theo mình mà thôi, sở dĩ có nghiệp đều do tâm tạo.

3. TÂM VÔ THƯỜNG

Nói đến cái Tâm nó sanh diệt vô thường còn hơn cái thân rất nhiều. Nó sanh diệt rất nhanh từng niệm từng sát na. Hễ đối cảnh là sanh tâm vui buồn, thương ghét, giận hờn. Lúc thì hồi tưởng về quá khứ để nuối tiếc. Khi lại mơ mộng đến tương lai, bồn chồn lo lắng trong hiện tại không có lúc nào được yên. Nên Đức Phật gọi đó là tâm viên ý mã, giống như khỉ chuyền cành, ngựa chạy rong.

Phàm phu lầm chấp cho tâm mình là thật mà gây ra không biết bao nhiêu lỗi lầm, nào là độc đoán cố chấp, bảo thủ, tự hào, khoe khoang hay hăm dọa nói rằng: “Tánh tôi hay nóng lắm, yêu cầu đừng có đụng chạm đến tôi”. Cái tánh sân si, hung hăng xấu ác như vậy mà không biết cải sửa, còn đi khoe khoang thật là mê muội không sao nói hết? Nếu tự cho cái tâm mình là thật. Đức Phật nói: “Chẳng khác nào như nhận giặc làm con, lấy khách trần phiền não làm chủ để cho nó dẫn dắt mình làm người khách phong trần rày đây, mai đó, đọa lạc lên xuống trong ba cõi, sáu đường, chịu không biết bao nhiêu đau khổ”

Tôi xin trích dẫn mẩu chuyện chứng minh tâm vô thường biến đổi:

Thuở Phật còn tại thế, có một chú tiểu tên là Tăng Hộ. Cha mẹ chú qua đời, họ hàng thân tộc không còn ai, chú chỉ còn một người cậu ruột, khi cậu đi xuất gia, chú đi tu theo cậu được xếp vào hàng SADI. Một hôm chú được thí chủ cúng dường hai xấp vải, chú đem cúng lại cho Thầy, nhưng Thầy không nhận, vì đã có đủ tam y. Chú buồn quá nghĩ chắc Thầy không thương mình nữa.

Chiều hôm đó, chú cầm quạt hầu Thầy nhưng chú cứ nghĩ miên man không biết sẽ về đâu? Thầy không thương, họ hàng không có, chú chợt nghĩ: “À! Ta đem bán hai xấp vải lấy tiền mua một con dê đực, một con dê cái. Vài năm sau sẽ có một đàn dê, bán dê mua bò, bán bò mua trâu, bán trâu tậu ruộng vườn, khi đó mình đã lớn, cưới vợ sanh đứa con trai kháu khỉnh sẽ dẫn vợ con về thăm Thầy quy y. Trên đường đi vợ chú vấp rễ cây, thằng bé rơi xuống đất. Chú nổi giận quơ cành cây gõ lên đầu vợ “đồ hư” vừa lúc đó Thầy chú mở mắt ra nói “Ngươi gõ lên đầu vợ không trúng, lại trúng cái đầu trọc của ta”.

Tăng Hộ bừng tĩnh giấc mơ, hốt hoảng bỏ chạy. Các bạn thấy chú chạy như ma đuổi, liền chạy theo bắt lại, dẫn chú đến Đức Phật.

Ngài liền an ủi: “Này chú, cái tâm phàm phu thường lén lút đi rất xá, vô hình, vô dạng … Chú nên khéo phòng hộ tâm mình, như gã mục đồng chăn trâu vậy”.

Được nghe lời dạy của Phật, Tăng Hộ ở lại tu viện tu hành đến ngày chứng quả A La Hán.

Tâm vô thường luôn bị xáo trộn, nó len lỏi vào cuộc sống của từng người, cho dù xuất gia hay tại gia. Đối với người xuất gia, phải biết kiềm chế tâm, thực hành thiền định, quay lại chính mình trong từng niệm. Đối với người tại gia cũng phải hiểu rằng: vô thường không từ bỏ một ai, cho nên trong đời sống hằng nghĩ đến điều thiện, hướng về đạo đức, làm lành lánh dữ. Có như thế mới mong thoát khỏi cảnh phiền não khổ đau.

Trong Kinh Pháp Cú, Phật thường dạy các hàng đệ tử luôn đề cao cảnh giác phòng hộ tâm mình:

Người trí canh giữ Tâm
Như phòng hộ thành quách
Tự tâm mình cũng phải,
Nên phòng hộ như thế.

Dầu chỉ một giây phút,
Cũng chớ nên buông lung.
Nếu giây phút buông lung,
Tức thời liền sa đọa.

Phòng hộ tâm như thế nào? Chúng ta xem qua mẩu chuyện sau đây:

Thuở Phật còn sanh tiền có một nhà SƯ Potthila là Giáo Thọ Sư làu thông Tam tạng Kinh Điển, có điều là chưa chứng quả, mỗi lần sư đến viếng Phật, Thế Tôn thường gọi Ngài là ông Sư Rỗng, biết đức Từ Phụ nói như vậy là để cho mình cố gắng tu.

Cho đến một hôm lòng buồn tột độ, Tôn giả bỏ hội chúng đi vào rừng, đi mãi cuối cùng gặp 30 vị A La Hán vốn là học trò cũ của Sư. Tôn Giả Potthila đến đảnh lễ vị Thủ Tòa xin Ngài hoan hỷ chỉ cho cách tu.

Vị Thủ Tòa mỉm cười nói:

– Làm sao tôi dám làm điều đó, khi trước kia Ngài là vị Giáo Thọ.

Tôn giả bị đẩy xuống vị Nhị Tọa cũng từ chối … cuối cùng Tôn giả đến trước vị A La Hán nhỏ tuổi nhất mới lên 7, van nài một cách khẩn thiết:

– Ô! Làm sao tôi dám làm điều đó, khi tuổi tác và sở học của tôi kém Ngài rất xa… e rằng Ngài có tin nổi hay không?

– Bạch Đại Đức! Lòng con tha thiết khẩn cầu mong Ngài từ bi chỉ giáo.

– A La Hán trẻ tuổi ôn tồn bảo:

– Này Tôn giả lúc còn tại gia Ngài có chơi đá dế không?

– Thưa biết ạ!

– Ồ! Tốt lắm. Giả sử có một cái hộp vuông chứa đầy dế, có 6 cửa, cửa nào cũng hé ra hết, thì các chú dế sẽ thò râu hoặc chân tay ra ngoài các ngõ ấy. Có phải thế không nào?

– Thưa vâng.

– Nếu cửa nào cũng mở rộng thì các chú dế sẽ chui ra ngoài hết, có phải vậy không?

– Thưa đúng như vậy.

Bây giờ muốn quan sát các chú dế ấy cho kỹ, ta phải đóng kín năm cửa chỉ chừa một cửa, rồi tập trung lại nhìn cho thật rõ ràng chăm chú vào các sinh hoạt của bầy dế, ta sẽ thấy rõ dế nào là dế than, dế lửa, dế cơm, chúng đang làm gì một cách rõ ràng!

Này Tôn giả, các cửa của cái hộp dế chỉ cho sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của ta. Những vọng tưởng lao xao và rộn ràng không khác nào bầy dế kia. Muốn điều phục chúng, không cách nào tốt hơn là ngồi im lặng, giảm bớt các hoạt động của ý thức… bình thản nhìn một cách rõ ràng, chăm chú, quan sát những vọng niệm của mình, không xen vào những ước muốn lấy, bỏ, loại, trừ…

– Bạch Đại Đức, con đã hiểu rồi… Tôn giả Potthila từ giã 30 vị A La Hán tìm một nơi yên tĩnh tọa thiền… Để khuyến khích Sư, Đức Thế Tôn gửi đến một bài kệ:

Tu thiền trí huệ sanh

Bỏ thiền trí huệ diệt

Biết rõ hai lẽ này,

Thế nào là đắc thất

Hãy tự mình nỗ lực

Khiến trí tuệ tăng trưởng.

Chẳng bao lâu Tôn giả Potthila đắc quả A La Hán. Nhiếp phục Lục căn hiền nhân có kệ:

“Sắc chi cũng không chinh phục được mắt,
Mắt tự do ngắm vật trong ngoài.
Đẹp không vọng niệm mê say,
Xấu không khởi ý chê bai gớm nhờm.

Tiếng chi cũng không làm tai mến,
Tai tự do nghe tiếng dở hay.
Dở không buồn ghét nơi tai,
Hay không buộc phải chuyển lay trong lòng.

Mùi chi cũng chẳng lung được mũi,
Mũi tự do để ngửi các mùi,
Thơm không làm nảy ý vui,
Hôi không thể khiến cho khơi lòng buồn.

Vị chi cũng chẳng sờn được lưỡi,
Lưỡi tự do nếm thử các vị,
Ngon không làm mến ưa chi,
Dở không sanh khởi ý gì chán chê.

Cọ đụng chẳng làm mê thân xác,
Thân tự do đụng các, lạnh nồng.
Lạnh nồng không nhiễm được lòng,
Cứng mềm cũng chẳng trói tròng nơi tâm.

Vật chi cũng không làm động ý,
Ý tự do xử trí vật danh.
Giàu nghèo ưa ghét chẳng sanh,
Có không cũng chẳng khiến tình chấp nê.

Cảnh không thể làm mê tâm trí,
Ý tự do tự trị lấy mình,
Trong sanh tử, vượt sanh tử,
Tuy mang xác tục mà tình thần tiên.

Đoạn này rất diệu huyền vô tận,
Người hạ ngươn nếu đặng dịp nghe.
Sẽ là tỉnh được giấc mê,
Bỏ điều hung ác theo bề thiện lương”.

Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tính trí huệ của Như Lai”.

Muốn phát huy những đức tính này. Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy: “Chỉ cần quán tâm là đủ”.

Trong khi quán tâm hành giả phải tỉnh táo, để lòng rỗng rang, không cho vướng mắc những ý niệm, tính toán ta và của ta. Chính cái tâm không này nó phát sanh ra trí huệ. Khi đó tình thương yêu của ta ban rải khắp muôn loài vạn vật, nhờ có cái tâm không phân biệt ấy chúng ta thích ứng dễ dàng với ngoại cảnh bên ngoài, đương đầu với Bát phong một cách tự tại, vẫn thấy, nghe, hiểu biết rõ ràng, nhưng không còn dấu vết của tình chấp.

Bát phong: Là tám ngọn gió lay động lòng người làm thương tổn thiện căn trong khi tu hành.

1 – Lợi: Là tiền tài, lợi dưỡng.
2 – Suy: Là nỗi đau khổ khi tiền tài lợi dưỡng bị hao tổn.
3 – Hủy: Bị người nói xấu, hủy mắng.
4 – Dự: Được người đời tán thán, khen ngợi.
5 – Xưng: Được tồn xưng kính trọng.
6 – Cơ: Bị chê bai, khinh khi.
7 – Khổ: Đau khổ, hoạn nạn đến
8 – Lạc: Vui sướng khi được điều như ý.

Chúng sanh đứng trước tám ngọn gió trên, bị nó thổi mà tâm không lay động thì cuộc sống được an vui, tu hành mau thành chánh quả. Bằng ngược lại bị nó thổi liền sa ngã, vùi dập đau thương thì thật là nhu nhược thiếu dõng lực, chẳng phải là người chân tu phải bị chìm đắm mãi trong vòng sanh tử.

Chúng ta thử tìm hiểu cuộc gặp gỡ giữa Tổ Bồ Đề Đạt MaHuệ Khả.

Huệ Khả thưa:

– Bạch Tổ Sư tâm con bất an xin Ngài dạy cho con phương pháp an tâm.

Tổ Sư bảo:

– Đưa tâm đây ta xem!

Huệ Khả lúng túng nói:

– Con tìm mãi không ra.

Tổ đáp:

– Vậy là ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.

Sở dĩ Huệ Khả tìm không ra vì tâm không có hình tướng, chẳng qua là chấp cho nó là có, rồi chạy đuổi theo trần cảnh làm cho tâm Ngài bất an. Khi xưa Tổ Huệ Năng được nghe bài kệ: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Ngài liền giác ngộ.

Vô trụ ở đây là xa lìa bốn tướng: Ngã, Nhân, Chúng sanh, Thọ giả.

Trong Kinh Kim Cang Phật nói bốn tướng:

1. Ngã tướng: Tướng của mình.
2. Nhân tướng: Tướng của người khác.
3. Chúng sanh tướng: Là chỉ cho tất cả chúng sanh hữu tình và vô tâm.
4. Thọ giả tướng: Chấp thọ mạng dài hoặc ngắn.

Phàm phu lầm chấp tướng trạng hư giả cho là thật, nên mãi đắm chìm trong bể khổ trầm luân.

Kinh Đại Bát Nhã dạy: Bồ Tát trong khi hành đạo quán sát thấy rõ ngũ uẩn đều không thật nên các Ngài tự tại vượt qua mọi khổ ách.
Ngũ uẩn gồm có:

1. Sắc uẩn: Là chỉ chung mọi thứ vật chất như là:
– Ngũ cán: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
– Ngũ trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc.
– Tứ đại: Đất, nước, gió, lửa.
2. Thọ uẩn: Là những cảm thọ vui sướng, buồn khổ, trơn nhám, cứng mềm, và không khổ, không lạc. Đó là những cảm thọ khi tâm đối với cảnh.
3. Tưởng uẩn: Đối cảnh nhận ra sự đen trắng, nhỏ to, dài ngắn … Đây là nhóm yếu tố tinh thần làm chức năng tưởng tượng hình dung ngoại cảnh.
4. Hành uẩn: Đối cảnh đem lòng ham muốn hoặc thương ghét, vui buồn … Của tâm đối với cảnh, do nhân duyên tạo tác các pháp hữu vi trôi chảy trong ba đời. Nói rộng ra hành uẩn thu nhiếp rất nhiều pháp trong đó gồm cả sắc, thọ, tưởng và thức.
5. Thức uẩn: Có công năng hiểu biết và phân biệt sự vật, khi tâm đối với cảnh. Như vậy chúng ta đủ hiểu sắc thuộc về thân và vật chất, còn thọ, tưởng, hành, thức chỉ cho tâm.

Đức Phật dạy Vua Bình Sa:

Sắc giống như cây chuối không bền. Thọ như điện chớp có rồi mất. Tưởng hư ảo như hơi nước. Hành tựa bọt nước không thật. Thức chỉ là trò huyễn thuật giả tạo ra người và vật, chúng không có thực thể, tùy theo cảnh mà thức tâm nảy sinh ra mọi sự phân biệt, các pháp chỉ là  trò luống dối”.

Như một vị thiền sinh, trong lúc tọa thiền thường thấy xuất hiện trước mắt mình một con nhện, làm cho tâm thần bất an. Một hôm anh định mang con dao  chờ nó hiện ra, đâm chết cho rồi, nhưng may mắn là trước khi hành động gặp được một Thiền sư, anh liền đem chuyện ấy thuật lại cho Thiền sư nghe, nghe xong Ngai không nói gì, chỉ bảo khi nào nó xuất hiện lấy phấn đánh dấu ngay chỗ đó thì  người sẽ biết con nhện xuất phát từ đâu. Thiền sinh vâng lời  làm theo khi  phát hiện ra mới thấy dấu phấn trước ngực mình nên hốt hoảng, anh liền đến vị Thiền Sư nói: “Nếu không có Ngài chỉ dạy thì con tự đâm mình chết rồi”.

Nhân đó Thiền Sư nói: “Đó là những vọng thức bên trong của ngươi nó hiện ra, chớ chẳng phải ở ngoài. Nên nhớ nhiếp tâm chánh niệm, tỉnh giác soi lại bên trong, đừng để ngoại cảnh chi phối, mới mong dứt hết vọng tưởng huyễn hóa. Sau đó Thiền sinh nghe lời thực hành không bao lâu, con nhện kia không diệt mà tự mất”.

Cũng như có Thiền Sư tên là YA mỗi khi ngồi thiền thường tự nhắc nhở tâm mình mỗi khi nổi lên tham sân, tà kiến, cấu uế. Ngài liền nói: “Ông chủ ơi! Coi chừng bị giặc nó lừa đó”. Nói xong Ngài tự dạ. Nhờ hành trì nghiêm mật như thế mà Ngài mau chứng đắc thiền định.

Còn chúng ta bị vô minh điên đảo lầm chấp, cho cái thân này là của tôi, của cải và những suy nghĩ, phân biệt, ta, người, thương ghét, buồn giận… những ý niệm thiện ác đua nhau trình diễn, nên thường bị tẩu hỏa nhập ma. Vì thế gây tạo nhiều nghiệp chướng…

Chính vì vậy, trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:

Trong các pháp do Tâm làm chủ,
Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên.
Nếu người làm, nói bằng tâm chẳng hiền,
Khổ đau theo mãi triền miên,
Như bánh xe ngựa theo liền với chân.

Trong các pháp do Tâm làm chủ.
Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên,
Nếu người làm nói bằng tâm hiền minh.
Hạnh phúc sẽ đến bên mình,
Như là cái bóng với hình không phai.

Hay là:

Nhất thiết duy tâm tạo
Vạn pháp duy tâm biến.

Phá Tướng Luận có giải: “6 nẻo luân hồi nghiệp báo trong 3 cõi đều do tâm sanh, chính cái tâm của ta. Nó là chủ nhân sáng tạo cho mình một thiên đường hạnh phúc huy địa ngục khổ đau”.

Bởi vì: “Địa ngục cũng tại tâm làm quấy, về thiên đường cũng tâm ấy tạo ra, cái chữ tâm là quỷ hay ma, Tiên hay Phật cũng là tại nó”.

Ma ma Phật Phật cũng do ta,
Ma Phật khác nhau chỗ chánh tà.
Giác Phật mê là ma đó vậy,
Chơn như là Phật vọng tà ma.

Thật vậy, nếu tâm tham, sân nổi lên mà mình không ngăn chận được, sanh tâm trộm cắp, đánh đập, giết hại người ta. Ngay lúc đó mình bị cảnh tù tội tức khắc, tới chừng đó mới ăn năn thì đã quá muộn, do đó trong kinh Đức Phật dạy: “Nơi nào có phòng hộ tỉnh giác thì nơi đó có an lạc, nơi nào không phòng hộ tỉnh giác là nơi đó đau khổ”.

Thí dụ: Trong gia đình vợ chồng, anh em, con cháu đang nói chuyện vui vẻ, không khéo phòng hộ, nó lạc qua đề tài đấu tranh, phiền não hồi nào mình không hay. Đến lúc tranh cãi chửi rủa mắng nhiếc đánh đập lẫn nhau làm cho gia đình đổ vỡ, ly tán, tới khi tỉnh ngộ thì không còn kịp nữa. Cho nên Đức Phật dạy chúng ta lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác, nếu đang nói chuyện mà không hài hòa có thể xảy ra xung đột thì mình phải dừng lại ngay, đừng cho nó phát sanh thì làm gì có phiền não, khổ đau. Nếu như ai không nghe lời Phật dạy: “Hiện tại khổ, kiếp sau lại bị quả báu hồ đồ hỗn ẩu câm ngọng líu lo khổ sở”.

Con người ở trong cảnh ái dục, thường bị tham, sân, si, ganh ghét, đố kỵ … Chuyện nhỏ xé to, tranh giành bảo thủ, từ trong gia đình anh em, chồng vợ, thân bằng quyến thuộc có khi vì một lý do không đáng sanh ra bất hòa với nhau cũng đủ khó chịu rồi, cố lánh mặt nhau, định tuyệt giao hẳn, nhưng ngặt vì còn sống chung một nhà quyết không nói chuyện nhiều khi nín không được phải nói ra với sự ngại ngùng, giao thiệp lấy lệ thật là khổ ! Tình cốt nhục, quyến thuộc mà còn hờn ghét lẫn nhau! Huống chi người dưng nước lã khác dân tộc giống nòi, một khi thù ghét rồi, tìm đủ mọi cách giết hại lẫn nhau, gây thành oán lớn hễ gặp nhau mắt tợ kim châm, giương cung, nắm gậy, cầm dao đâm chém, đánh đập, bắn giết lẫn nhau, cuối cùng đôi bên đều bị tổn hại.

Ở đời người ta não hại nhau là do giành quyền lợi và phần phải về mình. Như vậy người ta thua, quấy họ đâu có chịu, cứ như thế oan trái mãi chất chồng.
Muốn hóa giải oan trái, sân hận mau lẹ không gì bằng chấp nhận tất cả sự xấu khổ, nhường điều tốt lành cho người. Phật bảo người nào làm được như thế sẽ hóa giải hết oan trái, hận thù và sanh ra vô lượng công đức mau thành Phật quả.

Kinh Pháp Cú Phật dạy:

Lời ác hay mắng chửi,
Kiêu mạn khinh miệt người.
Gian tham và trộm cướp,
Đánh đập cùng giết hại.
Ai làm hạnh nghiệp này,
Thù oán sẽ theo đây.

Lời ôn tồn hòa thuận,
Tôn kính chẳng khinh ai.
Biết đủ và bố thí,
Từ bi đối mọi người.
Mở trói buộc an nhẫn,
Thù oán tự hết ngay.

Khổng Tử dạy: Lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng, Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.

Qua lời dạy của Phật và Thánh bảo ta phải hỷ xả những kẻ hại ta, thù oán hôm qua đừng giữ lại trong tâm, những kẻ phụ ta chớ ưu sầu, lưu luyến, không nên để lòng thù hận che mờ lý trí.

Sân hận âm thầm thiêu huệ mạng,
Lửa phiền ngùn ngụt đốt tâm can.
Sân si tạo nghiệp một đời,
Nghìn năm thọ khổ, muôn đời trầm luân.

Đó là những lời ân cần của các bậc Thánh Hiền nhắc nhở các hàng Phật tử, vậy mà có mấy ai nghĩ ra cứ mãi cho người hiền thường bị kẻ khác bắt nạt. Đó là quan niệm sai lầm nhiều người đã vướng mắc. Muốn khắc phục quan niệm này, ta phải vững niềm tin nơi Tam Bảo, tin sâu lý nhân quả. Tự hỏi tại sao người ta không lấn hiếp kẻ khác mà lại bắt nạt, gieo khổ cho mình? Khi đó nên nhớ lời Phật dạy, cố gắng nhẫn nhục coi như kiếp trước mình gieo khổ cho họ, bây giờ bị người ta làm khổ lại hoặc xem họ như người bệnh, hay kẻ điên, im lặng chấp nhận. Khi đó đối phương tự nhiên cảm thấy cụt hứng cuối cùng đành bỏ cuộc.

Nói đến nhân quả Phật dạy:

Rằng ai muốn biết nhân xưa,
Hãy xem hoàn cảnh bây giờ chịu đây
Muốn biết quả báo sau này,
Xem điều tội phước ta nay đang làm.

Nếu như ai không tin ra oai, hung dữ làm cho người xung quanh ngán sợ, kết quả chỉ thêm thù, kết oán mọi người kinh tởm xa lánh. Đó là nguyên nhân làm mất hết sự kính trọng, thông cảm, giúp đỡ của các thành viên trong gia đình. Khi đó ta mất hết chỗ đứng và làm xấu đi sự tương giao ngoài xã hội.
Than ôi ! Quả bất thiện chưa trả lại vay thêm… Thực ra tranh cãi hành hung đều là biểu hiện, tánh dã man và lạc hậu mà người thông minh có đạo đức không bao giờ hành động như thế.

Nên nhớ trong lúc nóng giận, buồn phiền không nên nói năng hay hành động điều gì hết. Nếu nói làm phần nhiều nó chỉ đưa đến thiệt hại cho mình và người, tốt nhất là nên niệm Phật, hành thiền, quán chiếu nhân quả, hoặc đi giải trí, cho đến khi tâm bình tĩnh, nói làm mới có kết quả đẹp.

Muốn xây dựng một người nào trước tiên là khen ngợi những ưu điểm của họ. Như là anh, chị, bạn bè… Cái gì cũng tốt, nhưng có một điều chưa được hoàn chỉnh, cố gắng khắc phục thì thật là người gương mẫu trong đời. Như vậy người ta mới hoan hỷ chấp nhận sửa lỗi, ngược lại nếu mình chỉ đem toàn cái xấu của họ nói ra, nguy hiểm nhất là chỗ đông người. Chúng ta sẽ bị thất bại ngay không giải quyết được gì mà chỉ gây thù chuốc oán mà thôi.

Cách hóa giải những cuộc xung đột các nhà Tâm Lý Học nói nếu gặp trường hợp vợ chồng… đang gây gổ đánh lộn, điều cấm kỵ nhất là ta không được nói lỗi bên nào, mà chỉ nên nói những tai hại của nó. Như là nếu anh chị chửi rủa đánh đập với nhau, thì làm cho cả hai đều khổ và làm khổ luôn cho con cháu, ngoài ra còn bị lối xóm gièm pha chê cười…

Nếu mà vợ chồng không biết trân trọng với nhau. Bồ Đề Lão Tổ nói: “Hủy hoại vợ chồng kiếp sau lẽ bạn”.

Có nhiều người thấy ai đó đang tranh cãi họ liền đến nói lỗi chỉ có một bên, chẳng giải quyết được gì, mà còn làm cho tình hình càng căng thẳng thêm lên. Nếu không khéo vô tình mình lại bị tai họa lây. Muốn có cuộc sống hòa hợp tốt đẹp, chúng ta hãy nhìn cách cư xử của những bậc thoát trần ngày xưa.

Thuở Phật còn tại thế, một hôm Ngài đến thăm ba người đệ tử đang an trú tu tập trong rừng Bàn Na Mạn Xà Tự. Đó là Tôn giả A Na Luật Đà, Tôn giả Nan Đê, Tôn giả Kim Tỳ La. Khi hay tin Phật đến ba Tôn giả vô cùng hoan hỷ đồng ra tiếp đón, thỉnh Đức Phật vào, trải tọa cụ lên giường mời Phật an tọa, rồi đồng nhau đảnh lễ và vấn an sức khỏe xong.

Đức Phật hỏi:

– Này các con, sống ở đây có được an ổn, hòa hợp không1?

Ba Tôn giả thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, chúng con sống rất là hòa hợp, an ổn.,

Phật hỏi:

– Cách sống của các con như thế nào mà được hòa hợp an lạc.

Ba Tôn giả nghe Phật hỏi như vậy, liền đảnh lễ thưa rằng:

– Bạch Đức Thế Tôn, chúng con sống hòa hợp là nhờ nghe lời Phật dạy, giữ gìn giới cấm, tu hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, khiêm hạ, lễ phép, ôn hòa, nhã nhặn, thông cảm, khoan dung, độ lượng, nhẫn nại, nhịn nhường, tùy thuận, tận tình giúp đỡ lẫn nhau. Chúng con không bao giờ sống với cái tâm riêng tư của mình, mà lúc nào cũng quan tâm tìm hiểu người bạn bên cạnh cần gì để cố gắng làm vui lòng nhau, đồng tiến bước trên con đường giải thoát. Nhờ vậy mà cuộc sống của chúng con được hòa hợp từ Thân, Khẩu, Ý đều được trọn lành trước sau như một.

Sau khi nghe ba Tôn giả trình bày xong, Đức Phật vô cùng hoan hỷ tán thán:

Lành thay! Lành thay! Các con sống hòa hợp không tranh cãi, cùng hiệp nhất trong một tâm, chung một Thầy, như nước hòa với sữa, thật là tấm gương lành đáng để cho Trời, Người kính trọng noi theo.

Còn chúng ta bất bình chống đối nhau là do đâu? Có phải chăng do lòng cố chấp, bảo thủ, hẹp hòi, bắt người ta phải giống mình; nếu như ai không nghe lời làm theo thì mình tìm đủ mọi cách thẳng tay triệt hạ cho hả dạ, thật là độc ác bất công và vô lý Tại sao mình không giống người ta, mà lại bắt người ta phải giống mình? Phật dạy, con người sanh ra trên cõi đời đều mang theo cái nghiệp khác nhau, cho nên chuyện giống nhau là điều không thể có được, ngoại trừ các vị biết tu.

Đức Khổng Tử nói: “Nhân vô thập toàn”. Hễ có ưu là có khuyết, bắt lỗi người phải xét lỗi mình, đó mới là đáng bậc công bình, nẻo chánh trực trí người quận tử. Cho nên, trong Nghệ Thuật Xử Thế mình muốn người ta sửa lỗi, trước tiên mình phải tự sửa đổi, tận tình thương yêu giúp đỡ, đối xử tốt đẹp với tất cả mọi người. Thể hiện qua lời nói, cử chỉ, hành động chân thành đầy lòng bác ái vị tha, thì tự nhiên người khác đối xử tôt đẹp lại mình.

Người xưa có câu: “Ta vì tất cả mọi người, thì mọi người sẽ vì ta“.

Ở đời tôi thấy có nhiều người lúc nào cũng muốn người khác nghĩ đến mình, mong cầu phước báo, mọi sự như ý, nhưng chưa thấy họ làm được việc gì lợi ích cho ai, mà lại mong cầu đủ thứ, thật là khờ dại! Người trí không cần mong cầu gì cả, lúc nào cũng lập công bồi đức làm lợi ích cho chúng sanh quả lành kia không cầu mà tự đến. Muốn có đầy đủ phước báo, thân tâm an lạc điều quan trọng tâm phải thanh tịnh.

Trong Kinh A Hàm Đức Phật đưa ra 11 phương pháp tu tập để cho tâm được thanh tịnh giải thoát:

1. Tự mình là thiện tri thức, thân cận, gần gũi thiện hữu trí thức để học hỏi những điều hay lẽ phải

Người xưa bảo: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Thật vậy, gần người ác, tâm mình trở nên hung ác.

Thí dụ: Như mình hiền hòa mà chơi với những người bạn hung hăng, lỗ mãng, mỗi khi họ nói ra là chửi thề inh ỏi, nói trên đầu trên cổ, nếu nhịn hoài cảm thấy thua lỗ nên chửi lại cho huề; ngay lúc đó mình đã hóa ra người hung dữ. Hơn nữa, gần người ác tánh hung dữ của họ làm cho mình khổ và dẫn dắt ta đi vào con đường sa đọa tội lỗi, ngoại trừ bậc thượng căn đại trí gần người ác mới không bị ô nhiễm. Còn gần người thiện lành, học hỏi được những điều hay lẽ phải và nhờ đức tánh thiện lành, từ tốn của họ làm cho tâm mình được an lạc.

2. Phải giữ gìn giới cấm, thâu nhiếp oai nghi, phòng hộ các căn, dẫu cho thấy một lỗi nhỏ cũng canh cánh lo sợ

Nếu muốn cho Tâm mình được thanh tịnh điều quan trọng nhất là phải giữ giới, vì nhân giới mới sanh ra định, nhất định tâm được thanh tịnh. Nếu không giữ giới thì tâm sẽ loạn động, không bao giờ thanh tịnh. Ngoài ra, mình còn phải thâu nhiếp lục căn khi tiếp xúc với lục trần đừng để cho nó dính mắc, dù một lỗi nhỏ cũng không nên vi phạm.

3.  Điều thiện chưa sanh thì làm cho nó sanh. Điều thiện đã sanh làm cho nó tăng trưởng. Điều ác chưa sanh thì đừng cho nó sanh. Điều ác đã sanh rồi thì phải đoạn trừ.

Nghĩa là: Ác nhỏ không nên làm, thiện nhỏ đừng nên bỏ. Chúng ta chớ nên xem thường cái ác nhỏ, vì nhiều cái ác nhỏ thành ra cái ác lớn, còn nhiều cái thiện nhỏ thành ra cái thiện lớn.

4. Không nên tụ tập bàn nói những điều nhảm nhí vô ích, phi pháp

Mỗi khi nói ra phải như pháp mà nói, lúc nào cũng phải ca ngợi tán thán hạnh thiểu dục tri túc, nói về giới, định, huệ, giải thoát, tri kiến. Sở dĩ con người bị phiền não đau khổ là do thị phi. Đa phần phụ nữ thường nói chuyện thị phi, người này tốt, kẻ kia xấu, người này đáng thương, người nọ đáng ghét. Nói chuyện ngoài đời chưa đủ nói chuyện trong Chùa, ông Thầy này tu hay, ông Sư kia tu dở… Nhưng xin thưa với quý vị, người ta đang tu nên vẫn bị nghiệp chi phối, cho nên có cái làm được, có cái chưa làm được, mình đừng vì thế mà sanh tâm hủy báng lập bè, kết đảng chống đôi thưa kiện lẫn nhau, vô tình làm cho ngoại đạo chê cười.

Cho nên Đức Phật nói “Sư tử trùng thực sư tử nhục“. Nghĩa là con sư tử không có con vật nào ăn nó được, mà chính con vi trùng trong thân của nó mới giết nó được. Cũng vậy Đức Phật nói: “Đạo của Ta, tà ma ngoại đạo không thể phá hại được mà chính trong hàng tứ chúng (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thiện nam và Tín nữ) tự hủy diệt giáo pháp của Ta”.

Sở dĩ mình tốt là tại vì nghiệp nó chưa tới, chớ khi nó đã tới rồi mình còn hơn người ta nữa. Cho nên người xưa nói: “Ai hay nói lỗi người khác thường bị mắc quả báo”.

Cho nên Đức Phật thương hết tất cả chúng sanh cho dù người đó giữ giới hay phá giới, thiện hay ác, vì con đường đó ngày xưa Ngài đã từng đi qua. Những ai còn vướng mắc đó là những chúng sanh đáng thương chớ không đáng ghét. Mình nói xấu người khác, người ta không mất gì, chính mình mất cái tâm thanh tịnh. Hơn nữa đến tai người ta, lại sanh ra oán thù, đối chọi, hơn thua, sát phạt với nhau, nào có ích gì ?

Nếu người tu không khéo vẫn bị như thường. Còn người nam ở không thì tụ tập kết bè đảng uống rượu, cờ bạc, hễ rượu vào là lời ra, câu mâu, quạu quọ, đấm đá lẫn nhau. Cho nên Thánh hiền nói: “Nhàn cư vi bất thiện” là vậy. Nếu như ai cũng nghe lời Phật dạy, giữ gìn khẩu nghiệp cho được thanh tịnh, gặp ai mình cũng khuyên nhắc lẫn nhau, cố gắng giữ giới. Vì giới là hàng rào ngăn chặn các điều ác, đồng thời cũng là chiếc áo giáp thần hộ mệnh, làm cho thân tâm mình được thanh tịnh an lạc. Nếu lúc nào cũng đem chuyện đạo đức ra nói hết thì làm gì có phiền não khổ đau.

Trong kinh Pháp Cú Phật từng dạy:

Phàm người sống ở đời
Miệng lưỡi chính gươm đao
Chửi rủa mắng nhiếc nhau
Là cầm đao tự hại
Không bàn luận thị phi
Suốt đời được an vui.

5. Quán thân bất tịnh

Quán 36 thể trược từ đầu đến chân, đầy dẫy sự bất tịnh. Nào là mồ hôi, nước mắt, nước mũi, dãi, răng, ghèn, ráy, máu, mủ, thịt, da, gân, xương, tim, gan, phèo, phổi, phẩn, tiểu… hay là quán thân bầm tím, sình chướng, nứt nẻ, hôi thối, ruồi đậu kiến bu, dòi rút rỉa; nhờ quán như thế mà tâm được thanh tịnh, xa lìa tham dục và ái nhiễm. Quý vị nên, lưu ý trong khi quán bất tịnh lấy mình làm đề mục để quán.

Thí dụ: Mình đang nhiễm sắc mà đem một cô mỹ nữ ra quán, vô tình làm tâm động thêm.

6. Quán tâm vô thường

Cái tâm nó luôn luôn sanh diệt vô thường, biến ảo không dừng do nhân duyên hợp lại, nên có con mắt, có cảnh để thấy vậy thôi; tâm không ở trong, không ở giữa, không ở ngoài, nếu đủ duyên thì hợp lại thấy biết, còn hết duyên là tan rã. Cũng như cái hộp quẹt có được lửa là do các duyên hợp lại nào là ga, đá lửa v.v… đủ duyên bật lên là cháy, thả tay hết duyên liền tắt, không thể chỉ nó ở đâu được. Tâm cũng vậy, tạm gọi là tâm chân, tâm vọng mà thôi, tâm chân là thấy biết tất cả mà không tham đắm trụ chấp… Còn thấy biết nghe mà tham đắm trụ chấp, đó là vọng tâm.

7. Quán pháp vô ngã

Quan sát thấy rõ các pháp không có gì là thật, bởi nó đều bị định luật vô thường chi phối. Cho đến cái thân này cũng là vô chủ, nó muốn bệnh hay chết giờ nào mình không sao ngăn được.

Thí dụ: Thân bệnh cho là khổ, hết bệnh cho là vui, thật ra khổ, vui, thường hay vô thường, tự tánh nó không có gì hết. Cho đến pháp của Phật cũng chỉ là phương tiện, như ngón tay chỉ mặt trăng, hay là thuyền bè để vượt qua sông mê. Pháp của Phật giống như lương dược tùy bệnh mà cho thuốc. Vì chúng sanh đa bệnh Phật pháp đa phương, có gì mà phải chấp tu thế này là đúng, thế kia sai, cao, thấp v.v…

8. Quán thọ thị khổ

Càng thọ nhiều, càng khổ nhiều, cũng vì VÔ MINH lầm chấp cho thân này là thật, nên mãi tìm đủ trăm phương ngàn kế để cầu ăn mặc, tham đắm sắc dục. Những thứ ấy họ cho là vui sướng, nhưng họ nào có biết vui là gốc của sự khổ đau.

Thí dụ: Muốn ăn ngon, mặc đẹp thì phải cực thân nhọc trí, việc ác gì cũng làm được, bất chấp thủ đoạn, miễn sao cho mình được vinh thân, phì da, của cải đầy rương, đầy tủ, ai khổ mặc kệ. Khi có của cải nhiều lại sợ gian phi, trộm cướp rình mò.

Cho đến dâm dục, họ cho là vui sướng, nhưng trong cái vui ấy chứa đầy những thứ ghen tương khổ đau, phiền muộn. Chẳng qua là lấy khổ làm vui, vui trong sự khổ mà thôi, cái vui ở thế gian phù du tạm bợ, phía sau của nó chứa đầy những thứ ưu bi, khổ nạn. Cho nên người xưa có câu:

Vui trong tham dục vui là khổ
Khổ để tu hành khổ hóa vui
Mong sao tập tánh không vui khổ
Mới thoát ra ngoài cảnh khổ vui.

9. Quản sổ tức

Muốn cho tâm không tán loạn phải theo dõi hơi thở vô ra. Thở ra biết mình thở ra, hít vô biết mình hít vô. Hít vô đếm một, thở ra đếm hai … lần lượt đếm đến mười, rồi trở lại bắt đầu từ một. Cứ đếm như thế suốt thời gian tọa thiền nhờ vậy mà tâm không tán loạn. Nếu ai tu Tịnh Độ nương theo phương pháp này, niệm hồng danh Đức Phật Di Đà đếm từ một đến mười và trở lại bắt đầu từ một. Cứ như vậy luân lưu mãi mau được nhất tâm bất loạn vãng sanh Cực lạc.

10. Tu tâm từ

Người nào tu tâm từ sẽ diệt trừ được sân nhuế, thân tâm an lạc, người đời kính mến, chư thiên gia hộ, tà ma ngoại đạo, độc trùng, ác thú không thể hại được, thức ngủ yên vui, diệt trừ oán nghiệp, oán thù tự giải. Muốn có tâm từ chúng ta phải mở rộng lòng thương yêu tất cả chúng sanh, gặp ai
mình cũng khiêm hạ, lễ phép, kính trọng tận tình giúp đỡ cả người lẫn vật một cách bình đẳng vô tư, đó gọi là Từ tâm của bậc Thánh. Chính cái tâm bình đẳng này, nó sanh ra vô lượng công đức và diệt trừ tất cả phiền não, sân nhuế.

11. Tu vô thường tưởng

Đức Phật dạy: “Người nào tu Vô Thường Tưởng, thời vị đó đắc được Vô Ngã Tưởng, đoạn trừ hết ngã mạn”. Có nghĩa là quán tất cả các pháp do duyên hòa hợp, không thật, cho nên diệt trừ được ngã mạn, chấp ngã, chấp pháp, dẫn đến thành tựu đạo quả, cứu cánh giải thoát Niết Bàn, bất sanh, bất diệt.

Nói tóm lại, vạn pháp đều do tâm tạo, phàm trong khi tác ý muốn làm việc gì cần phải lấy trí tuệ, tư duy quán xét, nếu như việc nói năng hành động đem đến lợi ích cho mình và người, thì nỗ lực làm, còn nếu đem đến thiệt hại cả hai, hoặc lợi mình, hại người thì phải đoạn trừ.

Muốn cho có trí huệ sáng suốt, điều quan trọng là tâm phải thanh tịnh, muốn cho được thanh tịnh, tự mình là thiện tri thức và phải gần người thiện lành, cố gắng giữ giới, phòng hộ các căn, khi nói ra phải như pháp mà nói lời đạo đức, tích cực làm việc thiện, quán thân mình là dơ bẩn, vật chất là giả tạm, tâm không thật, pháp chỉ là phương tiện.

Có nghĩa là thấy biết tất cả mà không bị ô nhiễm vướng mắc, trụ chấp đó là tâm chân thường, chân lạc, tự tại, giải thoát. Đây là phương pháp nhiếp tâm để duy trì chánh niệm, phản tỉnh thanh lọc làm cho tâm được trong sạch thanh tịnh. Động, Tịnh, Khổ, Vui, những môi trường hoàn cảnh xung quanh chúng ta tốt hay xấu đều do tâm tạo ra mọi cảnh ngộ.

4. HOÀN CẢNH VÔ THƯỜNG

Như quý vị cũng từng thấy và chứng kiến không biết bao nhiêu những cảnh vinh, nhục, sang, hèn, được, mất, hơn, thua cứ tiếp tục diễn ra trước mắt. Nào là lâu đài xe cộ, của cải vật chất đầy kho đi chăng nữa, nhưng chỉ cần một trận động đất thiên tai hỏa hoạn, bão tố, lũ lụt hay trải qua một cơn binh biến cũng trở thành những đống tro tàn, gạch vụn vùi sâu dưới lòng đất.

Kìa! là cung điện nguy nga của Tần Thủy Hoàng, được xây bằng xương máu của nhân dân mà giờ đây còn đâu! Nọ là thành cổ Loa kiên cố, nay chỉ còn lại những ký ức xa mờ. Và còn biết bao nhiêu thành phố nguy nga, tráng lệ đã vùi sâu vào lòng đất hay dưới đại dương, khi trải qua một cơn động đất tàn phá, núi lửa phun trào, khủng bố, chiến tranh thảm khốc do loài người tàn bạo gây nên… Làm cho vô số sanh linh chết thảm…! những người còn lại sống sót phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, đói đau không thuốc; khiến cho vợ xa lìa chồng, cha mẹ ly biệt con cháu, kẻ ở góc biển, người cuối chân trời, bơ vơ trông chờ thương nhớ.

Những điều đó thường xảy ra trên quả địa cầu này. Quý vị có nghe đài, xem báo đã rõ. Trong kinh Pháp Hoa Đức Phật dạy: “Tam giới vô an du như hỏa trạch”, giống như ở trong nhà lửa, ngủ trượt ác thế thật đáng khiếp sợ. Nhưng vì một chút miếng mồi ngũ dục làm cho chúng sanh quên hết những khổ nạn đang bao vây bên mình. Quý vị nên nhớ tất cả vật chất trên cõi đời này đều vô thường giả tạm, vì:

Của vốn năm nhà ta chẳng có
Thân này tứ đại vốn là không.

Năm nhà đó là: giặc cướp, lửa cháy, nước trôi, con hư phá sản, nhà nước xung công. Nói đến đây tôi nhớ đến mẩu chuyện:

Có ông trưởng giả nọ có 4 bà vợ:

  • Bà thứ nhất ông coi như khúc ruột: nhất hô bà ứng muốn cái gì có cái nấy.
  • Bà thứ hai tuy địa vị không bằng bà thứ nhất, nhưng lúc nào cũng quanh quẩn bên ông thì mới vui.
  • Bà vợ thứ ba lâu lâu ông ta mới để ý tới.
  • Còn bà vợ thứ tư số phận rất hẩm hiu không khi nào ông đoái hoài đến.

Một hôm ông trưởng giả lâm phải cơn bệnh nặng. Biết mình không qua khỏi, bèn cho gọi 4 bà vợ tới. ông nhìn bà vợ thứ nhất nói:

– Anh có 4 vợ, em là người anh yêu thương nhất, vậy khi nào anh chết, em hãy cùng anh qua thế giới bên kia cho tròn câu: Sống thì đồng tịch đồng sàng, chết thì đồng quan đồng quách.

Bà vợ thứ nhất nói:

– Em biết tình của anh đối với em rất mặn nồng, nhưng chết là âm dương cách biệt đường ai nấy đi em không thể theo anh được. Bao nhiêu gửi gắm vào bà vợ thứ nhất không ngờ bà trả lời như vậy. Ông trưởng giả buồn tủi, ngước nhìn bà vợ thứ hai ông hỏi:

– Còn em thì sao?.

Bà vợ thứ hai trả lời một cách phũ phàng hơn:

– Hằng ngày anh yêu thương chị cả nhiều hơn em mà chị còn không chịu đi theo anh, thử hỏi làm sao mà em đi theo anh được? Hơn nữa, em báo cho anh biết, anh tắt thở giờ nào em đi lấy chồng giờ đó. Ông trưởng giả nghe qua vô cùng buồn bã, bất mãn, chán nản, đau khổ, gượng

Nhìn bà vợ thứ ba, thấy bà vừa khóc vừa nói:

– Anh đừng lo khi nào anh chết, em sẽ lo ma chay tuần thất, giỗ quải cho anh, chớ em không thể thực hiện được yêu cầu của anh.

Ông trưởng giả tự nghĩ suốt cuộc đời của mình luôn hy sinh, chịu đựng không biết bao nhiêu gian lao cực khổ cho những người vợ. Bây giờ, không ai đi theo mình mà còn có những hành động phũ phàng, vong ân, bội nghĩa, thật đáng buồn cười cho thói đời đổi trắng thay đen. ông vừa nói vừa ứa nước mắt.

Bà vợ thứ tư thấy vậy bèn nói:

– Tuy hằng ngày, anh không ngó ngàng tới em, nhưng em tình nguyện theo anh, anh đến đâu là em đi tới đó.

Không chỉ riêng ông trưởng giả đó có 4 bà vợ thôi đâu, mà trong tất cả chúng ta đều có sẵn 4 bà ấy.

Bà thứ nhất:  chỉ cho thân mình, vừa đói đã ăn, vừa khát đã uống, vừa lạnh đã đắp, nực thì quạt liền, tìm đủ mọi cách cung phụng cho thân được đầy đủ tiện nghi tha hồ hưởng thụ ngũ dục trên sự đau khổ của người khác. Nhưng khi chết rồi nó trở thành thây ma, hôi thối trong nghĩa địa, nếu đem đi thiêu chỉ còn một nắm tro tàn mà thôi.

Bà vợ thứ hai: là chỉ cho tiền tài, của cải vật chất khi còn sống nó là của mình, đến lúc chết nó qua tay người khác, chớ nào có đem được gì đâu? Cho nên bà ta nói: “Anh chết giờ nào, em đi lấy chồng giờ đó là vậy”.

Bà vợ thứ ba chỉ cho thân bằng quyến thuộc, dầu họ có thương mình lắm là lo ma chay, tuần thất, giỗ quải, khóc lóc kể lể tiễn đưa quan tài tới huyệt mồ hay lò thiêu là cùng, chớ không ai dại gì mà chết theo …

Bà thứ tư là chỉ cho những nghiệp lành hay dữ trong đời bình sinh của mình, có nhiều khi vì vợ, vì con hay thân bằng quyến thuộc mà tạo không biết bao nhiêu lỗi lầm. Ăn chung, tội thì lãnh riêng. Kinh Địa Tạng cũng dạy: “Tội mình làm thì tự gánh lấy không ai thay thế được cả”. Vậy mà chẳng có mấy ai thức tỉnh, cứ đắm mình trong tình, tiền, danh, lợi.

Vì quá tham lam, con người tìm đủ trăm phương ngàn kế đem ra thi thố tranh danh đoạt lợi, giành giật từng chén cơm, manh áo, tranh nhau từng tấc đất, cực lực đấu đá với nhau cho đến chín sống, mười chết, tha hồ hốt của phi nghĩa, nhưng họ lại quên rằng: “Tất cả ai rồi cũng chết”, hễ có rồi lại không, hôm nay của mình, ngày mai qua tay kẻ khác. Thế mà có người ỷ mình giàu có mua quan, bán chức, nghinh ngang, hông hách, đàn áp, bóc lột, sống xa hoa, kiêu kỳ trên xương máu, mồ hôi, nước mắt của người khác, cho rằng như thế là hay, là giỏi. Nhưng họ đâu có ngờ rằng, chỉ cần sa cơ thất thế phải lâm vào hoàn cảnh tù đày, hoặc tử hình hay tha phương cầu thực.

Trong kinh Bồ Tát Giới có dạy: “Tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc, cha mẹ nhiều đời chết rồi sanh trở lại trong lục đạo”. Nếu chúng ta giết hại hoặc hơn thua, tức là sát phạt, tranh giành với người thân trong quá khứ của mình chớ không ai xa lạ.

Kinh Báo Hiếu Phật lạy đống xương khô để tưởng niệm lục thân quá khứ, Ngài đã từng tuyên bố: “Tất cả người nam là cha của ta, người nữ là mẹ ta, từ đó mà sanh ra”. Như thế để cho chúng ta thấy được lẽ đó mà mở rộng lòng từ bi đối xử với tất cả chúng sanh. Nếu không mình sẽ trở thành kẻ cuồng si độc ác, sát hại người thân trong quá khứ, vun bồi cho người thân hiện tại thật là tội lỗi và vô nghĩa. Đó là điều lầm lẫn do thiếu trí huệ mà ra.

Con người vì lòng tham vô bờ bến, mong cầu đủ thứ: nào là giàu sang, quyền chức, vua chúa, vợ đẹp, con ngoan, mọi sự như ý khổ cực tìm cầu không được thì bực tức ưu phiền, nếu có được đi chăng nữa, đến khi mất lại càng khổ thêm; cũng chính vì danh, lợi, tình làm cho con người phải điêu đứng, đảo điên, khổ sở, thất vọng đến đỗi phải quyên sinh.

Như tôi thấy thỉnh thoảng có người đem vong vô chùa, hỏi ra mới biết chết vì thất tình, mình nghĩ thế gian bộ hết người rồi sao? mà lại dại dột đến thế. Nhưng khi xem kinh mới hiểu, chẳng qua họ chết là vì kiếp trước đã từng làm cho người ta khổ lụy chết thảm. Bây giờ tự nhiên nghiệp thức khiến họ tự nghĩ, nếu không sống chung với người đó thì chết, chớ không ai thay thế được. Vì nhân nào quả nấy đành rằng chẳng sai.

– Tình phụ bạn, bạn có buồn không nhĩ.
– Bạn phụ tình, bạn nghĩ thế sao.

Bởi vậy Cổ Đức than rằng:

Hố sâu tình dục lại ghiền,
Ghiền cho đến chết chúng khiêng quan tài.

Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
Đâu đem tiền của đem rày hầu non.

Chỉ có tội phước hãy còn,
Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm đài.

Phước nhiều Tiên cảnh lên rày,
Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê.

Chừng ấy mới thấy gớm ghê,
Ăn năn chẳng kịp, khó bề tính toan.

Để đánh thức người đời trong kinh Pháp Cú Thí Dụ dạy:

Khi Đức Phật ngự tại nước Xá Vệ, trong thành có một ông già dòng Bà La Môn đã 80 tuổi, nhà giàu của cải vô số. Nhưng ông ta thuộc hạng người khó độ, chẳng biết gì đạo đức, cứ mãi tạo nhiều điều bất thiện, không biết lo cơn vô thường mà chỉ biết lo làm nhà cho đẹp tạo tác đủ thứ: nào là nhà trước cửa sau, nào là lầu mát nhà ấm, nào là nhà đông nhà tây, hai hàng dài có chừng vài chục nóc. Nhưng chỉ có cái nhà trước và nhà sau còn cách nhau chưa liền, mỗi khi đi lên xuống thường Bị mưa nắng bất tiện, nên ông đích thân ra chỉ huy cho chúng thợ làm.

Bấy giờ Đức Phật dùng đạo nhãn xem thấy ông già này, không còn mấy hôm nữa sẽ bị tận mạng ; thế mà ông nào có tự biết gì đâu, nên cứ loay hoay nhọc sức, không ích gì cho đời sau, thật là đáng thương!

Đức Phật với A Nan hai thầy trò cùng đi đến tận nhà, vui vẻ hỏi ông rằng: “Ông lão làm gì đó, có nhọc mỏi không? Và nay còn cất nhà này nữa chi thế

Ông đáp và giải thích: “Nhà trước để tiếp khách, nhà sau để tự ở, hai dãy đông tây cho con cháu tôi tớ ở, và để của cải. Mùa hè nóng bức thượng lên lầu cao cho mát, mùa đông lạnh lẽo, xuống nhà kín cho ấm. Ngài đã hiểu hết chưa?”.

Đức Phật bảo: “Ta nghe danh ông lão đã lâu, muốn gặp nhau để đàm luận cho vui, nay Ta sẵn có một bài kệ khẩn yếu: kệ này có ích cho những lúc an lành hay bất hạnh, giờ đây muốn tặng cho ông, vậy nên nghỉ tay cùng ngồi. Ta đọc cho ông nghe được không?”

Ông đáp: “Tôi đang bận việc lắm, nên không thể ngồi đàm luận đượ; mai mốt nếu Ngài đến thời hay biết bao. Nếu bài kệ khẩn yếu thì Ngài cứ việc đọc, tôi vừa làm vừa nghe cũng được”.

Đức Phật phải chiều lòng đọc kệ:

Có con thêm có của,
Người mê lo bận rộn.
Ta chẳng phải là ta,
Con, của đâu có thật.

Cao sang sẽ sa cơ,
Của cải hợp rồi tan.
Tài sản nhiều đến đâu,
Không tránh khỏi già chết.

Người ngu không lo trước,
Chẳng biết tai họa đến.
Ngu tự xưng là trí,
Ầy thật là rất ngu.

Ông già bạc phước ấy khen ngợi, Ngài thuyết kệ hay thật, nhưng nay bận quá, ngày mai Ngài đến, chúng ta sẽ cùng bàn luận thì hơn. Thế là Đức Phật thương hại cho ông ta rồi đi. Đức Phật vừa đi không xa, ông già tự tay đưa cây lên cho thợ làm, chẳng may bị sẩy tay cây rơi xuống đánh vỡ đầu chết ngay tức khắc. Người nhà la khóc vang dội động cả xóm làng. Đức Phật đi chưa bao xa, thì xảy ra tai biến này.

Ngài đi đến một làng khác, vừa gặp mười người Phạm Chí họ hỏi Ngài đi đâu vậy?

Phật đáp: “Ta đi đến nhà ông già ở làng kia, với mục đích để thuyết pháp, nhưng ông không tin và cũng không biết tai biến
vô thường, Ta vừa đi thì ông đã chết vì cây rơi trúng”. Rồi Phật lại vì các ông Phạm Chí thuật lại ý nghĩa bài kệ mà Ngài vừa mới đọc cho ông già nghe khi nãy. Nghe xong các Phạm Chí vui mừng hớn hở, đều được thấy dấu vết của đạo.

Liền đó Đức Phật thuyết một bài kệ khác cho mấy ông nghè:

Ngu ám gần người trí,
Như bầu chứa hương vị.
Chứa đựng tuy đã lâu,
Mà chẳng biết được mùi.

Sáng suốt gần người trí,
Như lưỡi nếm mùi vị.
Khi đưa đến chót lưỡi,
Thì liền biết vị gì.

Người ngu lo tạo” tác,
Vì thân chuốc tai họa.
Cam lòng làm việc ác,
Tự gây ra tội nặng.

Khi ăn năn đã muộn,
Dầu cho có khóc than.
Nào có ích lợi gì
Nhân ác nghiệp gây rồi.
Trả báo do nhân gieo,
Phải chịu quả đắng cay.

Các ông Phạm Chí được hân hạnh nghe bài kệ này, lòng tin càng bền vững, vui mừng làm lễ phụng hành.

Cổ Đức cũng dạy:

Thương bấy người đời không vẫn không,
Ruộng vườn nhà cửa có rồi không.
Vợ con cha mẹ rồi cũng chết,
Danh lợi giàu sang rốt cũng không

Trăm khéo trăm khôn tuồng giả tạm,
Ngàn mưu, ngàn kế cũng hoàn không.
Suốt đời lo lắng gầy cơ nghiệp,
Nhắm mắt hai tay không vẫn không.

Ngẫm lại, từ cổ chí kim danh vọng, vật chất có gì tồn tại mà phải lao tâm, nhọc sức gây ra nhiều nghiệp ác như núi Thái Sơn để tiếng nhơ lưu hậu thế.

Ôi! Vòng danh lợi kiên cố đã giam hãm con người từ vô lượng kiếp. Xã hội càng văn minh, khóa lợi cùm danh, càng siết chặt. Vì thế người đời cả sang lẫn hèn, chẳng có mấy ai tự tại an vui, muôn khỏi bị danh lợi xiềng trói ta chớ nên tham muốn nó.

Đức Phật chủ trương đạo giải thoát, khuyên chúng sanh ít ham muốn, biết đủ, bố thí để diệt trừ tánh tham lam, keo kiệt, bỏn xẻn.

Nói đến phước báo của sự cúng dường bố thí:

Thuở Phật còn sanh tiền, một hôm tín nữ SUMANA sớt bát cúng dường Tam Bảo xong, liền đến đảnh lễ Đức Phật, thưa rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn, con thường sớt bát cúng dường và bố thí, những việc làm đó kết quả của nó như thế nào? Xin Phật từ bi chỉ giáo.

Phật bảo:

– Này SUMANA nếu trước khi con cúng dường, bố thí, trong khi cúng, thí, cho đến sau cùng đều khởi tâm hoan hỷ, thời phước đức ấy quả thật vô lượng, vô biên. Hiện tại thân tâm an lạc, người trí khen ngợi, nếu đem hồi hướng cho người thân quá cố, thời cả kẻ còn, lẫn người mất đều được lợi ích. Bằng như đem phước lành đó cầu đạo quả Bồ Đề, thời sau khi chết sanh trở lại vào nhà tôn quý, xuất gia được thừa hưởng sự cúng dường một cách đầy đủ và chẳng bao lâu đắc được đạo quả Bồ Đề.

Kinh A Hàm Phật dạy: “Nếu người nào thường phát tâm bố thí cúng dường, như lời Phật dạy, người đó khi đi, đứng, nằm, ngồi, phước đức thường sanh không dứt”. Như chuyện ông cấp Cô Độc xây cất tịnh xá Kỳ Viên chưa xong mà cung trời đã kiến tạo dành sẵn cho ông rồi, chẳng những vậy thôi mà còn vượt qua mọi ách nạn.

Thuở xưa Đức Phật tu khổ hạnh trong rừng già, Ma Vương đến quấy nhiễu đủ mọi cách nhưng không bao giờ làm lay chuyển được tâm Ngài.
Ma Vương hỏi Phật:

– Sao Ngài không ở hoàng cung để hưởng những lạc thú, tội gì dấn thân vào chốn nguy hiểm, khổ cực này? Nào: rắn, rết, hổ, beo, ma quỷ… Ngài không sợ sao?

Phật từ tốn bảo:

– Có gì mà phải lo sợ.

Ma Vương nói:

– Ngài lấy chi để bảo vệ ?

Phật đáp:

– Chính cái phước đức nó tự bảo vệ ta.

Ma Vương không sao làm lung lạc được lòng Ngài liền biến mất.

Phật bảo: “Người nào có phước đức tự nhiên tâm minh, trí sáng, nói làm cầu mong việc chi đều được thành tựu tốt đẹp. Còn người không có phước, tâm trí mè mờ, nói không ai nghe, làm đâu thất bại đó cầu muôn việc đều không thành tựu, thường chuốc họa vào thân”. Ông bà mình thường bảo: “Có đức không sức mà ăn”. Vì thế chúng ta nên cố gắng vun bồi phước đức cho mai sau, nếu không thì hưởng hết phước thi nguy.

Muốn cho sự bố thí cúng dường được kết quả tốt đẹp phải thực hành bố thí ba la mật, là không thấy mình thí, vật thí và người thọ thí. Nếu ta chấp vào sự bố thí, cúng dường thì dễ sanh tâm phiền muộn, bực tức, khi họ không làm vừa ý mình. Từ đó sanh ra hủy báng, tự mình diệt hết phước đức. Như chuyện bà Thanh Đề cúng dường cho chư Tăng mà không được tiếp đón nồng hậu, liền sanh tâm độc ác, lấy thịt chó trộn làm bánh cho các thầy tu ăn, nên mới bị đọa vào cảnh ngạ quỷ.

Do đó, trong khi bố thí vì lòng từ làm cho chúng sanh an lạc mà mình không mong cầu gì hết, cái tâm đó nó rộng lớn như hư không chẳng so lường được. Còn nếu như tính toán, so đo thì phước đức bị hạn chế, không khéo sanh ra tội lỗi, mất hết tất cả phước lành. Có nhiều người nghèo quá, tôi khuyên bố thí để chuyển hóa cái nghiệp của mình, họ lại trả lời rằng: “Con nghèo quá lấy cái gì để cho”.

Tôi nói: “Quý vị nghèo lắm như hai vợ chồng Đàn Nỵ Già chỉ có một cái chăn để đi xin ăn mà còn dám cúng dường cho một vị Tỳ kheo đem về tịnh xá”. Đức Phật Tỳ Bà Thi bảo đem lại cho Ngài, Phật đưa cái chăn lên tuyên bố? “Trong đại hội cúng dường hôm nay người cúng dường cái chăn này là phước lớn hơn hết”. Tất cả đại hội ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi Phật: “Nguyên do tại sao?”.

Phật nói: “Vật tuy khinh mà trọng ở chỗ tâm chí thành, rồi Phật thuật lại cảnh khốn khổ của vợ, chồng Đàn Nỵ Già, ai nghe qua cũng đều cảm động đem tiền của đến giúp đỡ. Nhờ căn lành đó mà 91 kiếp liên tục được sanh vào nhà tôn quý, gặp Phật Thích Ca, xuất gia tu hành đắc đạo”.

Hai là: Truyện ông Khưu Trường Xuân số chết đói, nhưng nhờ lấy thân mình cõng người qua dòng suối Bàn Khê suốt 6 năm. Tiếng tốt đó đồn đến tai vua liền cho người rước Ngài về phong làm Quốc Sư. Cho nên thế gian dụng tướng, Phật dụng tâm, chớ không phải vật nhiều hay ít?

Vì thế có câu:

Kiếp trước chẳng thí mới chịu nghèo,
Bây giờ khổ não nó đeo theo.
Người sao của cải càng dư dả,
Nghĩ lại phận mình túi vắng teo.

Hay là:

Giúp người đừng mong trả ơn,
Hảo tâm bố thí liên tòa được lên.

Phật dạy: “Trong các Thí, Pháp Thí là bố thí Bất Tử. Phước ấy cao thượng hơn hết trong các phước điền”. Thật đúng như lời Phật dạy, nhờ học giáo lý mình mới biết cách tu hành rồi truyền cho người khác đồng tu cho đến ngày thoát vòng sanh tử. Nên Ngài nói chúng sanh nào muốn cho thân tâm an lạc thì phải học Giáo Pháp. Vì Pháp có công năng diệt trừ phiền não, cấu uế và duy trì tình thương yêu đoàn kết. Từ đó sanh ra phước lộc làm lợi ích cho mình và mọi người.

Nhưng ít ai nghĩ đến cứ mãi đam mê ra vào chốn lợi danh, có lúc xem Kinh được vài câu liền sanh tâm ngao ngán bỏ qua, thậm chí có người cả đời chưa xem được chữ nào. Chính vì xem thường lời Phật dạy, nên từ trong gia đình đến xã hội xảy ra lắm cảnh thảm họa thương tâm, thiếu đạo đức là cửa ngõ đưa đến bại vong.

Để tránh những tai họa đó, quý vị nên cố gắng xem Kinh, nghe Pháp và truyền trao cho người xung quanh để họ biết cách tu hành, hóa giải ác nghiệp. Nhờ phước đức đó nghiệp của mình cũng được nhẹ theo. Thế nên tôi xin khuyên Quý vị, khi có Kinh sách hoặc băng giảng nên cho người khác xem nghe. Nếu không để lâu cũng hư mà không sanh được phước, lại thêm kiếp sau phải bị quả báo dốt nát. Như truyện Ngài Bàn Đặc, Phật dạy chỉ có hai chữ “Chổi quét” mà Ngài không nhớ, cũng do giấu Pháp mà ra.

Vả lại vô thường đâu có định ngày. Nếu cứ mãi chất chứa dầu cho có kho vàng, núi bạc, quan quyền, vua chúa, cung phi, mỹ nữ, vợ đẹp, con ngoan khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang theo được gì ngọài hai chữ tội và phước. Ôi! Tham tất cả, rồi cũng mất tất cả. Nhưng có một điều quý vị nên lưu ý, khi đưa kinh hoặc băng cho người khác xem nghe, cần phải xét coi có phù hợp tinh thần giáo lý của Đức Phật không?

Vì có nhiều người nói: “Không có Thiên đường, Địa ngục, Tây phương Tịnh độ, tất cả đều ở thế gian”. Họ nói, khoa học ngày nay phóng phi thuyền lên cung trăng, sao hỏa, chẳng thấy một vị Tiên nào và thăm dò trái đất cũng không thấy địa ngục ở đâu?

Như chúng ta thấy không gian vô tận có vô số vì sao, khoa học ngày nay đi đến mấy cái rồi mà vội cho là không có. Đó chẳng khác nào lấy trí phàm phu mà so lường bậc Thánh, vì trong kinh Đức Phật nói: “Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Có nghĩa là Phật nói: “Có nhiều Thiên đường, Địa ngục, Tây phương Tịnh độ mà họ cho không có, tức là ma rồi”.

Có nhiều người nói rất là hay, thường đem giáo lý Đại Thừa Bát Nhã ra nói cái gì cũng là “không”. Cho nên chẳng cần lễ bái, tụng kinh, niệm Phật, nhưng chúng ta đã thấy trong Kinh Pháp Hoa, tiền thân của Đức Phật là Thường Bất Khinh Bồ Tát, gặp ai Ngài cũng kính trọng lễ bái, còn ta là phàm phu mà lại coi thường sự lễ bái, tụng kinh, niệm Phật hay sao? Nếu không có tướng thì làm gì có tánh? Như trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy Tu Bồ Đề: “Phàm là cái gì có hình tướng đều là giả dối, để cho chúng sanh đừng dính mắc vào đó trong lúc tu hành, chớ không phải bỏ hết các hạnh lành?”. Vì thế Phật nhấn mạnh rằng: “Nếu người nào chẳng giữ giới thì sẽ không thành tựu được định huệ và giải thoát”.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng cũng từng dạy: “Miệng nói tiếng ‘Không’, nhân ngã, ba độc (tham, sân, si) chất chồng sanh tâm ngạo mạn, tham lam, bỏn xẻn”.

Nói về lòng tham của con người, hiền nhân có than rằng:

Của trần chớ bận lòng tham,
Từ lâu tham nó đâu làm chi nên.
Tham vốn là căn nguyên sự khổ!
Tham là mồ vô số sanh linh.

Tham danh, tham lợi, tham tình,
Càng tham càng thấy lòng mình không an.
Tham khi được rồi toan lo giữ,
Rủi mất đi sanh sự rầu buồn!

Trong lòng cứ rạo rực luôn,
Phải là tham vốn cội nguồn khổ chăng?
Tham thì gian, kế sang đến tội,
Tội vốn là nguồn cội tử sanh.

Bao nhiêu khổ ách hoành hành!
Do lòng tham đắm nảy sanh phần nhiều
Vậy ráng bỏ đừng chịu nó nữa,
Để cho lòng thường bữa được yên.
Những nào túc trái tiền khiên,
Chỉ là lo trả lòng nguyền không gây.

Xưa có một nhà Hiền Triết bảo con cháu khi ông chết ghi trên bia mộ của ông: “Đến đây tôi chỉ còn lại những gì tôi cho”.

Khổng Tử cũng nói:

Thế thượng vạn ban đô thị giả
Nhơn sanh đạo đức quả duy chơn.

Có nghĩa là: Vạn vật trên cõi đời này, đều là vô thường giả tạm, duy có đạo đức mới là trường cửu.

Đạo là gì: Đạo là con đường, là lẽ phải, cũng là chân lý tuyệt đối đưa chúng sanh từ trong bóng tối vô minh, sanh tử, khổ đau tiến ra ánh sáng Chơn như, giải thoát Niết Bàn, bất sanh, bất diệt. Đạo có rất nhiều con đường từ xa đến gần, từ thấp lên cao như là: Địa ngục đạo, Ngạ quỷ đạo, Súc sanh đạo, A tu la đạo, Nhơn đạo, Thiên đạo, Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật đạo.

Trong luận A Tỳ Đàm Phẩm Lộ Tử Môn, Đức Phật dạy những nguyên nhân đưa đến luân hồi trong vòng lục đạo:

1. Con đường địa ngục

Phật dạy:“Nếu người nào ôm lòng sân hận quá nặng, giết hại cha mẹ, thánh hiền, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu, đâm chém, bầm chặt, đập đầu, cắt cổ, lột da, chiên xào, nấu nướng, làm cho chúng sanh đau đớn, rền la, giẫy giụa, oằn oại, chết thảm chẳng có một chút từ tâm. Người đó trong giờ phút lâm chung, những diễn tiến của lộ trình tâm sẽ tuần tự hiện ra”.

Thí dụ như: Tên tướng cướp thỉ thấy mình đang giết người, cướp của. Còn tên đồ tể thì thấy mình đang đập đầu bò, đâm họng heo, bầm chặt, phanh da xẻ thịt như thế nào đó… Nó tuần tự hiện ra hết, tiếp theo thấy quỷ sứ đến bắt hồn dẫn xuống địa ngục để hành hình. Đó là con đường xuống địa ngục đạo”.

2. Con đường ngạ quỷ

Phật dạy: “Nếu người nào tính tình tham lam, đụng đâu lấy đó, thẳng tay vơ vét những của phỉ nghĩa, tàn ác, gian phi, lừa đảo thế nhân, tham quan, ô lại… Những người như thế trong giờ phút lâm chung tham kiểu cách ra sao, nó tuần tự hiện ra hết. Qua diễn tiến đó, nó hiện ra Ngạ quỷ tướng, sanh làm quỷ đói, khổ sở để đền cái tội tham lam vô độ của mình”.

3. Con đường súc sinh

Phật dạy: “Nếu người nào do lòng sỉ mê quá nặng không biết đâu là tốt xấu, phải trái. Thiện cho là ác, còn ác cho là thiện, tin tà mong phước mê tín, với cái tâm mù quáng như thế, trong giờ phút lâm chung, mê muội gây nghiệp ra sao, nó tuần tự hiện ra… Qua diễn tiến đó, nó hiện ra hết thú tướng, thấy con thú cái nào đó đang giao hợp khởi tâm ái nhiễm, thọ thai vào đó sinh ra làm thú”.

4. Con đường A Tu La

Phật dạy: “Nếu người nào tánh khí hung hăng, thích đấu tranh hơn thua. Trong giờ phút lâm chung đấu tranh đấm đá, sát phạt ra sao, nó lần lượt hiện ra hết. Qua diễn tiến đó, nó hiện ra cảnh giới A Tu La, là thần chiến đấu hằng ngày đánh lộn với nhau, la lối vang dội cả núi Tu Di”.

Tâm như thế nào, sanh vào cảnh giới như thế đó. Thích đấu tranh, đấm đá thì sanh vào cảnh đấu tranh. Đó là định luật nhân quả.

5. Con đường nhơn đạo

Phật dạy: “Nếu người nào tính khí hiền lương, biết quy y giữ gìn ngũ giới (không sát sanh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu), tụng kinh, niệm Phật, trong giờ phút lâm chung, tự thấy mình đi chùa dâng hương hoa, lễ Phật tụng kinh… Qua diễn tiến đó, nó hiện ra một người phụ nữ nào đó có nhơn duyên với mình, thọ thai vào tiếp tục sanh ra làm người”.

6. Con đường thiên đạo

Phật dạy: “Nếu người nào chuyên tu thập thiện:

– Thân: không sát sanh, đạo tặc, tà dâm.
– Khẩu: không nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.
– Ý: không tham, sân, tà kiến.

Trong giờ phút lâm chung, những điều lành mình làm được hằng ngày như là: trì chay, giữ giới, tụng kinh, niệm Phật, cúng dường, hố thí, phóng sinh, cứu trợ, ủy lạo, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ… Qua diễn tiến đó nó hiện ra cảnh giới thiên đường, thấy tiên đồng ngọc nữ đến rước mình về thiên giới hưởng lấy thiên phước”.

Nói tóm lại:

– Người nào tâm địa độc ác là họ đang đi con đường xuống Địa ngục.
– Người nào tham lam trộm cắp, keo kiệt, bỏn xẻn là đang đi vào con đường Ngạ quỷ.
– Ai mê muội mù quáng, không phân biệt được thiện ác, mê tín, tà dại là đi vào loài súc sanh.
– Người nào thích đấu tranh, hơn thua là đang đi vào con đường A Tu La.
– Còn người giữ 5 giới là đang đi vào cảnh giới người.
– Người nào tu tập thập thiện là đang đi vào con đường Thiên giới.

Đó là 6 nẻo luân hồi, mình muốn đi lên xuống tùy ý.

Còn nếu như ai muốn thoát cảnh luân hồi sanh tử, thì phải xuất gia giữ 250 giới, tu lần cho đến khi chứng đắc quả vị Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật mới thoát khỏi cảnh sanh tử. Giữ năm, mười giới mà còn trật vật, đừng nói chi tới 250 giới, rồi trải qua vô số kiếp tu mới thành Phật. Mình mới nghe qua thấy ngán, nhưng trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:

Tỳ Kheo múc nước thuyền,
Nước hết thì thuyền nhẹ,
Thuyền nhẹ lướt đi mau,
Người đoạn trừ ái dục,
Và luôn cả sân nhuế,
Ái dục và sân nhuế,
Đã dứt sạch không còn,
Thời liền chứng Niết Bàn.

Hễ ái dục, sân hận nổi lên là diệt liền, ngay đó là Bồ Đề, Niết Bàn, vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Có người nói, sao tu hoài mà không thành Phật, thử kiểm lại coi mình tu có giống Phật không? Nếu tu giống thời thành Phật liền, tại mình tu không giống Phật cho nên làm chúng sanh, luân hồi là vậy. Nếu mình nhận thấy không đủ khả năng thoát khỏi luân hồi, thì nên chọn vào cảnh trời, người, chớ để rơi vào cảnh Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A Tu La là nguy lắm. Do đó ta phải cố gắng tu.

Đời Mạt pháp, nếu không siêng năng học tập, tu hành đến lúc lâm chung thì đã muộn. Sở dĩ, có ba con đường dữ là do tham, sân, si. Thân làm ác, khẩu nói ác, ý nghĩ ác, như giận người nào, muốn cho họ chết một cách thê thảm mới hả dạ, nếu ghét ai là thêu dệt đâm thọc, chửi rủa, hủy báng đủ điều quyết cho họ lâm vào cảnh khổ, lại không ưa thấy điều tốt của người, còn như đánh vào người nào, quyết đánh họ đau đớn thấu trời, thấu đất. Khi giận hờn, tàn bạo thì không kể tôn ti thượng hạ phừng mang trợn mắt như lửa đổ, la lối vang dội như sấm nổ, chửi mắng đánh đập, hãm hại người chẳng chút nương tay.

Còn khi làm phước thì thiện tâm rất yếu ớt chỉ được lúc đầu, lần hồi ngày qua tháng lại đến khi quên mất hết việc thiện là xong. Khi làm ác thì tâm lực mãnh liệt lúc tu hành làm lành thì ý chí bạc nhược, yếu hèn mà lại mong hóa giải hết ác nghiệp, hưởng nhiều phước báo. Có nhiều người vừa mới tụng kinh, niệm Phật lại sanh tâm mỏi mệt chán nản tự nhủ mình không nên làm cho thân thể quá mỏi mệt sẽ sanh bệnh. Hơn nữa tu hoài mà không thấy linh ứng hay đắc đạo toàn là gặp những chuyện không may, lại đổ thừa tại tu mới đổ nghiệp như vậy.

Nhưng họ có biết đâu, nếu không nhờ tu đã chết từ lâu rồi, vì tu là chuyển nghiệp, nặng thành nhẹ chớ không phải là thêm nghiệp. Chẳng qua là biện hộ cho tánh giải đãi, lười biếng, ham ăn, mê ngủ, vừa nằm xuống mê man như chết không bao giờ tưởng nhớ đến Tam Bảo, Kinh luật hay là báo ơn cha mẹ, tổ thầy, cúng dường, bố thí, học pháp nghe kinh, tinh tấn tu hành lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, để làm lợi ích cho chúng sanh. Từ sáng đến tối, cứ mãi lo nghĩ cái chuyện hơn thua, được không bao nhiêu, phiền não khổ đau lại quá nhiều, chẳng khác nào con thiêu thân đâm đầu vào lửa.

Trong kinh Phật dạy: “Chưa có công đức nào từ sự giải đãi, lười biếng mà sinh ra, và cũng chẳng có chút phước lành nào từ sự kiêu mạn, tự đắc mà được”.

Trên đường đạo không gì bằng tinh tấn,
Không gì bằng trí tuệ của đời ta.
Sống điêu linh trong kiếp sống ta bà,
Có tinh tấn là vượt qua tất cả.

Có nhiều người tu mà cũng sợ, vì nghe nói suốt đời tu hành, nếu trong giờ phút lâm chung, cận tử nghiệp chỉ cần nổi lên một niệm sân cũng bị đọa như thường. Để giải nỗi nghi đó, tôi xin kể cho quý vị nghe một mẩu chuyện:

Thuở Phật còn tại thế, một hôm Ngài Mahanam đến hỏi Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, trọn đời con quy y Tam Bảo thọ trì 5 giới, lập công, bồi đức. Giả sử một hôm nào đó con bị chết một cách bất đắc kỳ tử như là bị tên bay, đạn lạc, voi dày, xe đụng trong khi chết một cách đau đớn hoảng hốt như vậy, con sanh về đâu ?

Đức Phật bảo:

Này Mahanam con chớ có sợ. Như có một cái cây nó nghiêng về hướng nào, sau khi người ta đốn hoặc hết tuổi thọ thì tự nhiên nó sẽ ngã về hướng đó, có gì đâu mà con phải sợ, tâm như thế nào sanh vào cảnh như thế đó.

Thí dụ: Người uống rượu khi ra đường họ tìm đến bạn rượu để bày tiệc ăn uống, còn người cờ bạc hút chích thì đến chỗ cờ bạc hút chích, còn người Phật tử hiền lành rủ nhau đến chùa tụng kinh, nghe pháp, bố thí, phóng sanh …

Đức Phật nói tiếp: “Ví có người đem đá liệng xuống hồ, rồi cùng nhau cầu nguyện cho nổi lên, chuyện đó không bao giờ có được, vì thể chất nó nặng phải chìm mà thôi. Người ác cũng thế, khi chết phải sanh vào cõi dữ, đó là lẽ đương nhiên. Còn người lành giống như dầu, người ta đem đổ xuống nước, thể chất nhẹ, tự nhiên nổi lên. Cho dù kẻ ác có nguyền rủa, trù ếm cho nó chìm cũng không thể chìm được, vì người lành lẽ đương nhiên sanh vào cõi lành”.

Nói tóm lại, thân này do tứ đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành, cho nên nó thường xung khắc lẫn nhau mà sinh ra bệnh hoạn, rồi âm thầm suy hoại cho đến ngày tan rã. Suy cho cùng thân này không có cái gì là của ta, đầu, mình, tay, chân, máu mủ, có phải của ta chăng? Không, chúng chỉ là những vật uế trược giả hợp. Nếu nói là của ta, tại sao nó muốn bệnh, chết giờ nào không sao ngăn được. Thân này quả thật là vô chủ chẳng khác nào như mộng ảo, lúc tàn canh do nghiệp si ái mê chấp mà thành mảnh hình ảo giả.

Con người đều bị định luật vô thường chi phối, phải chịu cảnh sanh, già, đau, chết lúc nào cũng phập phồng lo sợ, ngoài cái lo sợ đó ra còn lo rầu đủ thứ: Công danh chưa thành, tình duyên trắc trở, tai nạn bất ngờ, thời cuộc biến loạn, thiên tai địa ách, mùa màng thất bát, mua bán không được, làm ăn thất bại, của cải mất mát, bà con nội ngoại ốm đau nghèo khổ, người thân bị bắt giam, cha mẹ, vợ chồng, con cháu đi xa không biết ra sao.

Hoặc là gặp cảnh trái ngang: tôi bất trung, vợ chồng bất chánh, con cháu ngỗ nghịch bất hiếu, bị người bội phản, oan gia đòi mạng … Khổ này chất chồng lên khổ kia. Con người vì bị vọng thức điên đảo chấp trước, nên mới bị thất tình lục dục lôi cuốn đắm nhiễm sáu trần, sanh tâm phân biệt có ta, có người, còn mất khôn dại … Chính vì sự lầm chấp đó làm cho con người mau già chóng chết.

Nhìn thấy kiếp người đầy bể khổ nên cổ nhân có câu:

Vọng tâm khi được tịnh thanh,
Trí ngu đều có thể thành Phật Tiên.
Lắm kẻ rõ căn nguyên cội khổ,
Sao không lo hối ngộ tu thân!
Ấy vì nghiệp nặng bên trần:
Nên lòng không rảnh để gần Phật gia.
Muôn việc vô quan tài là hết,
Nghèo giàu đều chung kết như nhau.
Uổng công lúc sống quơ quào,
Mạng chung tay chẳng nắm vào món chi.

Vô thường là một định luật chi phối tất cả vạn vật từ thân tâm cho đến hoàn cảnh không có cái gì tồn tại. Vô thường cũng là một vị thuốc thần diệu trị bệnh tham ái, làm cho thân tâm con người được bình tĩnh trước những cảnh ân ái, biệt ly, khổ vui, được mất, của cải vật chất, tình thương đều là giả tạm. Nhờ nghĩ vậy, cho nên chúng ta dám hy sinh tài sản, thân mạng làm việc nghĩa, xa lìa những thú vui giả tạm, lúc nào cũng hướng tâm vào đạo để làm lợi ích cho tha nhân.

Như thuở Phật còn tại thế, một hôm Ngài Mục Kiền Liên ngồi thiền ở Thi Lâm, thấy có một con quỷ vừa đánh đập, vừa chửi mắng cái thi thể nói rằng: “Chính vì ngươi tham lam vô độ, cho nên hôm nay ta mới bị đọa đày làm quỷ đói khát như thế này”.

Cũng gần đó có một vị chư Thiên vừa rải hoa lên thi thể và tán thán ca tụng: “Chính nhờ ngươi lúc sanh tiền, thân biêt làm lành, khẩu nói lành, ý nói lành, cho nền ta mới được sanh làm chư thiên. Vì thế hôm nay ta mới trở lại đây tán thán rải hoa tri ân tưởng niệm”.

Ngài Mục Kiền Liên chứng kiến cảnh đó, hôm sau đem chuyện ấy thuật lại cho Đức Phật và tứ chúng nghe. Nhân đó Phật dậy: “Tuy cái thân này vô thường giả tạm nhưng mình biết lợi dụng nó làm việc lành, thời hiện tại thân tâm an lạc người trí khen ngợi. Sau khi chết được sanh lên thiên giới thọ hưởng những thú vui thù thắng vi diệu. Còn nếu như mình tham đắm nó, mà gây ra ác nghiệp, thời hiện tại khổ đau, sau khi chết lại sanh vào cảnh khổ hơn”.

Trong kinh Phật dạy: “Kiếp người ngắn ngủi, không biết chết giờ nào, ráng mà lo tu niệm, lợi dụng lúc còn mạnh khỏe, sáng suốt, nỗ lực lập công bồi đức làm hành trang trên con đường giải thoát. Vì trên cõi đời này, ai có thân đều phải chết. Những người biết tu, khi bệnh thân họ vẫn bị đau nhức, còn nội tâm rất là an lạc. Vì nghĩ rằng trong đời mình không có làm việc gì ác, giống như chiếc áo đã cũ rồi đổi chiếc áo mới, thấy rõ được con đường mình đi vào cảnh giới an lành, cho nên họ ra đi một cách an nhiên tự tại”.

“Còn người không biết từ khi sắp chết, họ rất sợ, tâm thần rối loạn. Nào là thương vợ mến con, tiếc của, tứ chi đau nhức, rên la giẫy giụa. Bởi chẳng biết tu cho nên không kiềm chế được cơn đau, tâm thần tán loạn, trước mắt mịt mù u ám không biết về đâu, bao nhiêu nghiệp chướng hiện ra kéo lôi đi vào con đường ác. Giống như chiếc áo cũ rồi mà không có chiếc áo mới để thay, cái đó mới là đáng sợ”.

Phật thường khuyên bảo chúng ta phải hằng ngày nghĩ đến cái thân này là vô thường, thì tự nhiên sự chấp ngã, tham, sân, si, không còn, lòng Từ Bi nảy nở biết thương người, cứu vật. Sự tranh đấu giành giật sát hại lẫn nhau giữa người và người, cùng loài vật không còn nữa. Có như vậy mới mong kiến tạo một thế giới hòa bình chúng sanh an lạc, giải thoát.

Quý vị nên nhớ như vậy mà cố gắng tu hành. Trước khi dừng bút tôi không biết gì hơn, xin nhắc quý vị: “Phàm làm việc gì nên biết hậu quả của nó về sau”. Nếu nhận thấy việc làm nào phù hợp với đạo, đem đến sự an lạc, lợi ích cho mình và người cùng vật, thì cố gắng tích cực làm liền, chớ nên hẹn hò. Người xưa bảo tu là để chuẩn bị trước cho cái chết tốt đẹp, chớ để chết đến mà chẳng có tu.

Cổ Đức thường khuyên:

Đời người ngắn ngủi chớ mê say,
Ráng lo niệm Phật gấp đêm ngày.
Vô thường tấn tốc nào ai biết,
Chớ nên lần lựa hẹn nay mai.

Phàm không lo xa ắt có chuyện buồn gần, để nước tới trôn mới nhảy sao cho kịp. Quý vị là những người mến mộ Phật Pháp, tôi xin nhắc nhở quý vị đôi điều, trợ duyên dìu dắt lẫn nhau đi vào ngôi nhà Phật Pháp. Tôi ước mong sao, quý vị nương theo lời dạy của Đức Phật mà tinh tấn tu hành, để hiện tại thân – tâm được an lạc, đến lúc lâm chung thân an niệm chánh, được PHẬT DI ĐÀ cùng chư THÁNH chúng phóng quang tiếp dẫn vãng sanh TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC QUỐC.

Ta Bà khổ Ta bà lăm khổ
Có bao người xét cho tột chỗ
Tịnh độ vui Tịnh độ nhàn vui
Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi
Nào ai rõ cái vui triệt đáo
Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã
Khổ, buồn rầu, lo sợ, chẳng còn.
Chốn Ta bà tim lụn dần mòn,
Thân tứ đại của người cũng thế.
Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật.
Đến lâm chung quả lành đâu mất,
Cảnh Tây phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu thân thiện tín hững hờ,
Chừng họa đến e cho khó tránh.
Môn Tịnh độ là môn cứu cánh.
Ráng phụng hành kẻo phụ Phật xưa,
Chí nhất, tâm tín nguyện phụng hành.
Được cứu cánh về nơi an dưỡng,
Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng.
Ao sen báu TâyPhương đua nở,
Chờ chung, sanh niết tâm.
NAM MÔ A ĐI ĐÀ PHẬT

PHỤ LỤC KỆ PHÁP

1. Thân

Thân này chưa biết ra chi
Của kia lại có chắc gì mà ham
Bao nhiêu cho thỏa lòng tham
Càng thâu càng đắm, càng làm càng say
Tiếc cho tháng rộng năm dài
Chung quy hoang phí về tay đồng tiền
Được thua, thua được liền liền
Hả hê mới đó, ưu phiền đâu đây
Đem thân làm kẻ tội đày
Cho bao vật chất nó cai trị mình
Để tâm làm vật hy sinh
Suốt đời theo lệnh dục tình dắt lôi
Cái tham bao thuở cho rồi
Cái không may đến một hồi là xong
Dã tràng xe cát biển Đông
Vô tình lượn sóng cướp công nhọc nhằn
Tuồng đời ai biết cho chăng?
Như mô.y tan hiệp, như trăng khuyết tròn
Đêm tàn tim lụn, dầu mòn
Cái đi mờ mịt, cái còn mỏng manh
Chắc chi bọt nước đầu gành
Chắc chi sương đọng trên cành ban mai
Bọt kia làn gió nhẹ lay
Sương kia mặt nhựt chiếu ngay xong đời
Mênh mông trong khoảng đất trời
Thân ta biết gửi về nơi chốn nào ?
Tử thần tay dắt làm sao ?
Gần xa mấy nẻo, thấp cao mấy từng ?
Và như phước thưởng, tội trừng
Biết công hay nợ, biết mừng hay lo ?
Thử theo công hóa mà so
Tội dồn muôn kiếp biết to thế nào ?
Phước gom nghĩ được là bao
Nếu đem trừ cấn biết sao thiếu thừa ?
Dặc dài kiếp củ, căn xiCa
Biết bao oan nợ mà chưa trả đền ?
Tiền cừu, hậu hận hậ quên
Một bền đi trả, một bên đến đòi
Lung tung trong cạm luân hồi
Vay qua trả lại, biết đời nào ra ?
Mấy ai suy kỹ nghĩ xa
Rảo chân sấn bước cho qua khoản này
Chán chè mộng cầnh đọa đày
Đưa tay trí huệ tháo dây dục tình
Đoạn trừ cái hoặc vô minh
Tâm chơn trở lại, tánh linh đem về
Gieo lan hột giống Bồ Đề
Xinh tươi nhành lá, sum suê cội tàng
Nước dương rưới khắp trần hoàn
Diệt trừ phiền não, tiêu tan tội tình
Gay chèo thuyền giác độ sinh
Bến mê phút chút biến thành ao sen.

2. Khẩu

Trăm năm vật đổi người đời
Một câu quý giá muôn đời còn ghi
Mở lời trước phải xét suy
Rằng ta cất tiếng, ích chi chăng là ?
Bằng như lời ấy thốt ra
Làm buồn kẻ khác thì ta xin đừng
Nói chi mắng nhiếc tưng bừng
Miệng xây núi nghiệp biết chừng nào tan
Nói chi chửi rủa kêu vang
Lưỡi đào hố nghiệp, biết đàng nào lên
Họa tai vì miệng mà nền
Bịnh căn vì miệng, mà rền phù trầm Ai ôi nghĩ lại kẻo lầm
Đóng bưng cửa miệng, chớ tầm quỷ ma
Củng thời tiếng nói thốt ra
Của chư Phật Thánh, dịu hòa biết bao
Là câu nói pháp thanh tao
Đưa người giữa biển, sóng xô lên bờ
Ôi lời nói, quý không ngờ
Đương phàm hóa Thánh một giờ đổi thay!
Ta nay học đạo Như Lai
Hãy dùng lời nói, mở bày pháp môn !
Ta nên cất tiếng ôn tồn
Phá tan những giấc mộng hồn tối đen ỉ
Miệng ta là cánh hoa sen
Một khi hé nở, một phen thơm lừng
Tiếng ta là gió mùa Xuân
Một cơn thổi nhẹ, muôn dân mát lòng!

3. Ý

Con người cái ý vốn hai
Khi mừng, khi giận đội thay không lường
Vội vàng khi ghét, khi thương
Khi vui vui ngất, khi buồn buồn hiu !
Muốn ưa, tạo sắm đủ điều
Rồi khi chê chán bỏ liều như chơi !
Pháp nương.tương đối không rời
Do hai lẽ ấy, ý đời phát sanh
Dẫy đầy ngoại cảnh chung quanh
Càng nuôi tạo ý trường thành thêm lên
Thói đời càng nhiễm càng quen
Bụi đời càng đắm càng đen tinh thần
Nhiều năm chung lộn trong trần
Y mình còn giữ riêng phần được đâu ?
Chịu mang ảnh hưởng từ lâu
Ý căn thôi đã ăn sâu lắm rồi
Nếu ai nhận ý là tôi
Tức thì bị ý cuốn lôi luân trầm
Dắt đi theo nẻo lạc lầm
Đọa chìm vào cõi tối tăm mịt mờ !
Nghiệp nhơn tội quả bao ngờ
Biết chỉ phương hướng bến bờ là đâu ỉ
Lướt theo ý dục mong cầu
Đèo cao băng vượt, biển sâu lao mình !
Con đường sinh tử, tử sinh
Ra vào lui tới thân hình đổi thay
Luân hồi trong cõi trần ai
Cũng vì cái ý chuyển lay không ngừng
Lên cao, xuống thấp vô chừng
Cũng vì cái ý lẫy lừng buông lung
Ý năng chế ngự oai hùng
Người người răm rắp phục tùng
vâng theo
Nguồn đời nước chảy thuận chiều
Cảm thương cái bọt riu riu xuôi dòng!
Mấy ai cưỡng ý, nén lòng
Vượt nguồn dục vọng, thoát vòng muốn ham
Tịnh tâm bớt nói, ngưng làĩh
Lần lần nhập Thánh, siêu phàm từ đây
Đừng lòng cố chấp riêng tây
Cũng đừng tính có ỷ này, ỷ kia
Ta người đừng tính phân chia
Có không đừng tính, đoạn lìa hai bên
Như thường, như vậy, như nhiên
Như như chẳng động không thiên,
không dời
Sự duyên thì đạo khác đời
Lý chơn đời đạo không rời, không xa
Chấp không, chấp có rầy rà
Đến khi vô chấp mới hòa thuận nhau
Sao sao thôi cũng là sao
Sự chi cũng vậy, thế nào củng xong !
Tâm không vạn sự đều khồng
Tâm chơn vạn pháp thảy đồng quy chơn
Học đòi theo bậc thánh nhơn
Phải trừ tâm vọng mới hườn bổn nguyên
Vọng tâm là ý tư riêng
Thất tình lục dục một tên khác gì
Thường nên kiểm soát hành vi
Khi ăn, lúc nói, đứng, đi, ngồi, nằm
Đừng cho vọng ỷ phóng tâm
Phải nhờ giới luật buộc cầm khít khao
Tuy không thấy ý chỗ nào
Nhưng khi động tác ý xao ra ngoài
Nếu ai thiền định hoài hoài
Ấy là ý mã bị cai trị rồi
Bằng ai giải đãi buông trôi
Trách sao ý mã chẳng lôi xa đường
Vậy nên hãy ráng kềm cương
Giờ giờ, phút phút phải thường soi tâm
Lặng lờ giữ vẻ trầm ngâm
Tánh đệ. dặt kín, nết đằm thắm nghiêm
Luôn luôn đôi mắt phải kềm
Đừng hay nhìn liếc kiếm tỉm chi chi …
Ngó ngay xuống bước chân đi
Ngó vào tâm trí luôn khi không rời !
Lỗ tai phải để thảnh thơi
Chớ ham nghe ngóng tiếng lời ai ai …
Nghe kinh, nghe pháp, nghe bài
Nghe vào tâm trí đãng hay sửa mình
Mũi thường phải ngửi mùi thanh
Ấy mùi đạo lý thơm lành hương đưa
Ngửi lâu càng mến càng ưa
Ngửi vào tâm trí để ngừa nhiễm ô !
Lưỡi dầu phải nếm vị thô
Cũng đừng chê trách, thích đồ cao lương
Nếm là nếm vị chơn thường
Nếm bằng tâm trí tỏ tường nghiệm suy
Thân như xúc đối thức chi
Tay chân kiềm chế trong khi đụng sờ
Sờ thiền lý, nắm huyền cơ
Sờ chừng tâm trí xem hờ kẻo quên
Ý đừng vọng tưởng rối ren
Th ường năng quán xét nhơn duyên
tao phùng
Tưởng suy tham cứu tột cùng
Tưởng gom tâm trí tập trung điển lành !
Phàm trong sự thể tu hành
Đừng buông cái ý tung hoành tự do
Bước đầu bổn phận làm trò
Cả thân tâm trí dâng cho người thầy
Mặc người uốn nắn chuyển xoay
Đặng mình diệt hẳn riêng tây ý xằng
Sống chung Giáo hội chư Tăng
Không còn tư ý mới năng thuận hòa
Đừng làm trái ý người ta
Cũng đừng tự ý kiêu sa của mình
Mới mong thật hiện hòa bình
Nhờ nơi giáo pháp chương trình
in khuôn
Chẳng ai ý lộng tâm buông
Mỗi người nắn đúc tròn vuông thành phần.

4. Nhẫn

1- Tục rằng no quá mất ngon
Và khi giận quá mất khôn thành khờ
Lửa xông đôi mắt đã mờ
Trắng đen phải quấy, bây giờ thấy đâu
Khôn phân nghĩa nặng, tình sâu
Không rành sự cảnh, đuôi đầu làm sao
Con tâm đã lánh đường nào
Mà con ma giận nhập vào đó thôi
Đánh Nam, dẹp Bắc một hồi
Múa men nào kể đất trời là chi
Người sầu, vật khóc lâm ly
Rõ ràng một cảnh A Tỳ gớm ghê
Đau lòng xót mắt mọi bề
Mà người gây thảm chớ hề có hay
Đứng xa trông thấy thương thay
Lửa lòng bốc ngọn, ai tày chữa chuyên !

2- Một cơn nóng giận không hiền
Khói sân tím ruột, lửa phiền cháy gan
Hại lây lắm kẻ vô can
Hỏa tai một trận, khổ nàn biết bao
Gió lên ngọn lửa càng cao
Bao nhiêu sự nghiệp đổ nhào như chơi
Phật xưa có dạy mấy lời
Rằng: “Rừng công đức một đời trồng gieo
Lửa sân nổi dậy đốt thiêu
Như chim mất cánh, như diều đứt dây”
Hỡi ơi ! Nghe mấy lời này
Có nên tiếc đám rừng cây chăng là ?
Có nên dẹp lửa cho xa ?
Có nên nhẫn nhục cho qua tháng ngày ?
Có nên lấp mắt, ngơ tai ?
Có nên niệm Phật hoài hoài hay chăng?

5. Giới

1- Nhịn nhường là giới đầu tiên
Kìa chư Phật vẫn thường khuyên ta hoài
Kẻ mong lìa bỏ trần ai
Mà còn phiền giận thật ngoài chữ tu

2- Người lanh mắt khác phàm phu
Vượt qua vực thẳm, hố sâu dễ dấng
Kia Phật Thánh thoát trần gian
Cũng nhờ qua khỏi con đàng chông gai

3- Giữ giới hạnh chớ lầm sai
Nói hành, tật đố tránh hai tánh này
Hằng gìn bổn nguyện đủ đầy
Thích nơi thanh vắng, am mây tu trì

4- Xét dò kẻ khác làm chi
Hạnh ta ta giữ cho y mới là
Cũng như lấy mật trong hoa
Con ong có phá màu hoa bao giờ

5- Cái tâm chớ để bơ thờ
Phải dùng giới buộc, phải nhờ luật dây
Kết gom hạnh đức đủ đầy
Nhiễu nhương phiền não từ đây xa lìa

6- Điều lành hãy gắng làm bia
Lánh xa điều ác, phân chia hai đường.
Để tâm trong sáng như gương
Chẳng màng sự thế, chẳng vương
bụi trần

7- Hãy gìn lời nói là cần
Giữ cho tâm ý lần lần thanh bai
Chớ làm một việc đơn sai
Là theo chánh đạo Như Lai lưu truyền

 

VÔ THƯỜNG

Lẽ ấy giữa trần ai

Cùng kiếp nhân sinh chỉ thế này.

5/5 - (2 bình chọn)

Tin tức liên quan

Bình luận (0 bình luận)